Chân Như Việt dịch.
Trích từ tác phẩm Trí Tuệ Uyên Thâm (A Profound Mind) của Đức Đat Lai Lạt Ma XIV, xuất bản năm 2011.
Trong thế gian
của duyên khởi, có những nhân và duyên liên quan đến kinh nghiệm của chúng ta về
đau đớn và hỷ lạc. Những kinh nghiệm này xuất phát từ nghiệp. Nghiệp, giải
nghĩa chính xác là “hành động”, đề cập đến một hành vi được tạo tác với một ý định.
Tính chất của một ý định – bản thân nó là một ý nghĩ hay karma (nghiệp) – sẽ
quyết định tính chất của hành vi do nó thúc đẩy, vì thế nó kiến tạo ra bản chất
của toàn bộ kinh nghiệm về hỷ lạc và đau đớn mà chúng ta trải nghiệm. Vai trò của
nghiệp vì thế được hiểu trong sự tương quan với những kinh nghiệm của chúng ta
về sướng khổ.
Vì kinh nghiệm
được những khổ thọ và lạc thọ một cách tự nhiên, chúng ta cũng có một ý thức nội
tại về cái “tôi” mà chúng ta vẫn hằng yêu quý theo bản năng. Vì sự ưu ái dành
cho bản thân mà chúng ta thấy yêu thương, quý mến những người xung quanh. Yêu quý bản thân là nguồn gốc của tâm từ ái mà
ta dành cho tha nhân. Làm thân người sinh ra trong bụng mẹ, chúng ta kết nối với
người mẹ một cách tự nhiên, chúng ta sinh tồn nhờ dòng sữa mẹ và được nâng niu
bằng sự chăm sóc của mẹ. Tình thương đối với người mẹ chính là mở rộng từ tình
thương của chúng ta dành cho bản thân. Tình thương này có cơ sở sinh học và sự
sinh tồn của chúng ta phụ thuộc vào nó. Gắn kết mật thiết giữa mẹ và con chẳng
phải là khế ước xã hội – nó là sự tự nguyện tự phát. Cường độ của nó cũng chẳng
cần phải trưởng dưỡng vì người mẹ nhận được nguồn hỷ lạc từ trái tim tận tụy hết
lòng vì con.
Các cảm xúc
khác cũng giúp chúng ta tồn tại. Tham luyến dính mắc là một cảm xúc chủ đạo khởi
phát những điều kiện giúp ta hiện hữu, tuy nhiên cảm xúc giận dữ và sợ hãi cũng
đóng một vai trò quan trọng. Một lần, có một khoa học gia nói với tôi rằng các
cơ bắp trên cánh tay chúng ta trở nên mạnh bạo hơn khi ta nổi sân, nó giúp ta đạt
được mục đích của cơn sân bằng cách thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Ông ta nói rằng,
sự sợ hãi sẽ làm cho máu lưu thông xuống các cơ bắp chân, giúp chúng ta bỏ chạy.
Do tình
thương giữa mẹ và con có hòa trộn với tham luyến, tình thương chúng ta dành cho
người thân yêu nhất cũng có sự hòa trộn này. Tuy vậy, chỉ vì những cảm xúc mang
theo thành tố của sự vị kỷ như thế không có nghĩa là chúng không thể trở thành
những hạt giống phát triển lòng bi đến các chúng sinh hữu tình khác. Tâm vị kỷ,
nói cách khác, có thể cần thiết cho sự sinh tồn, thì tâm vị tha cũng vậy. Chúng
ta phải suy niệm những lợi ích của lòng từ ái và bi mẫn không vị kỷ đối với sự
hỷ lạc của thân và tâm. Chúng ta cũng phải nhận thức được thái độ tâm bi mẫn
giúp trưởng dưỡng một môi trường gia đình êm ấm thuận hòa hơn như thế nào khi cùng
lúc cũng góp phần vào một xã hội lành mạnh và ổn định hơn.
Chúng ta cũng
khơi sâu tâm bi mẫn qua việc suy xét những mức độ vi tế hơn của nhiễm tâm phiền
não. Ban đầu chúng ta mong cầu các chúng hữu tình thoát khỏi những phiền não hiển
hiện của thân và tâm mà ta thường gọi là “khổ khổ”. Chúng ta cũng mong cầu cho
chúng sinh xa rời những khổ đau vì sự biến chuyển đổi thay (hoại khổ)– những phút
giây hạnh phúc rồi cũng lụi tàn, gây sầu tạo khổ. Sâu xa nhất là sự mong nguyện
cho tất cả chúng sinh được giải thoát khỏi những khổ đau bao trùm của hiện hữu
do duyên trong vòng luân hồi sinh tử (hành khổ.)
Lòng bi mẫn càng
trở nên mãnh liệt hơn khi kết hợp với nhận thức đau khổ là hậu quả của trạng
thái tâm nhiễm ô phiền não và nghiệp hay còn gọi là các hành động bùng phát, tất
cả đều bắt rễ từ vô minh căn bản của sự dính mắc vào ý niệm về bản ngã. Với một
tuệ giác về vô ngã, chúng ta sẽ hiểu ra vô minh căn bản có thể khắc phục được và
nguyên nhân của khổ đau sẽ được trừ khử tận gốc. Liễu ngộ được rằng đau khổ của
chúng sinh có thể đoạn trừ sẽ gia cố thêm sức mạnh của tâm bi mẫn mà chúng ta trao
tặng cho họ, chuyển hóa từ lòng thương xót đơn thuần thành những hành vi chủ động
dấn thân thành tựu những đích đến khả thi. Đây chính là cách tiếp cận của những
hành giả uyên thâm. Điều này dẫn ta tới nhận thức về sự đúng đắn của con đường
tâm từ ái mà chúng ta đang thực hành vì rằng đích đến này có thể thành tựu được.
KHỔ ĐAU VÀ HẠNH PHÚC.
Mỗi con người
là trung tâm của vũ trụ riêng mình. Chúng ta tạo ra hướng Đông, Tây, Nam, Bắc
cũng như phía trên phía dưới, tất cả đều trong mối tương quan với vị trí của
mình. Bản ngã có thể được nhìn nhận như một bộ khung cơ bản mà chúng ta nhận hiểu
và liên kết với toàn bộ hiện hữu.
Đau khổ, cái mà chúng ta có thể suy niệm như cõi Ta bà trầm luân của riêng mình, cũng như
hạnh phúc, tức là giải thoát khỏi khổ đau, suy cho cùng đều khởi nguồn từ ý niệm
của ta về bản ngã. Sự đau khổ phiền não của tôi là hậu quả của tham đắm vào các
hành vi vị kỷ. Rồi hành vi vị kỷ xô đẩy tôi hành xử theo hướng càng chuốc
thêm cho tôi nhiều khổ sở khác. Tôi dường như loanh quanh trong sinh tử luân
hồi, nơi đã kiến tạo cõi Ta bà của chính tôi. Mưu cầu hạnh phúc của tôi khởi phát
từ mong cầu thoát khổ.
Toàn bộ sinh
tử hay Niết bàn có thể được tri kiến trong mối liên hệ với sự suy niệm cá nhân về
bản ngã. Giáo huấn của Đức Phật về khổ, nguyên nhân của khổ, trạng thái tận diệt
khổ và con đường dẫn tới trạng thái tận diệt khổ là tất cả những đề mục phải được
quán xét từ góc nhìn của một cá nhân có sự liễu ngộ tình trạng cấu uế phiền não
của mình, thừa nhận nguồn gốc gây ra khổ và kết liễu nó bằng cách thực hành
theo con đường dẫn tới đoạn diệt khổ. Tương tự, thực hành tôn giáo của tất cả
các truyền thống tín ngưỡng chỉ có ý nghĩa khi chúng liên hệ đến những cá nhân
có sự thực hành.
Đức Phật đã
nói rằng suy niệm về “Tôi” là cái tâm ma. Chính vì suy niệm lầm lạc của ta về bản thân mà sinh chấp ngã, vốn là cội rễ của mọi khổ đau. Đức
Phật cũng dạy rằng chúng ta là chủ nhân của chính mình. Mặc dù hoàn cảnh hiện tại
của chúng ta trong luân hồi sinh tử là kết quả của những bất thiện nghiệp trong
nhiều đời kiếp do phiền não thúc đẩy, chúng ta đều sở hữu khả năng tạo tác những
thiện nghiệp mới đơm hoa kết trái từ những hành động do tâm bi mẫn thôi thúc. Tương lai ta nằm
trong tay ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét