Chuyển hóa nhiễm tâm phiền não


Lama Zopa
Chân Như Việt dịch

Phương pháp công hiệu nhất để tịnh hóa nghiệp phiền não là thực hành thanh tịnh nghiệp chướng bằng minh chú Kim Cang Tát Đỏa. Chừng nào nghiệp còn chưa được tịnh, quý vị sẽ còn tiếp tục bị độc phiền não giày vò trong các kiếp vị lai.
Có thể một buổi sáng thức giấc, quý vị cảm thấy trầm uất mà không có lý do cụ thể. Nếu không giải quyết được vấn đề này bằng thiền định thì một giấc ngủ hoặc đi đâu đó nghỉ ngơi hay lái xe dạo một vòng bên ngoài cũng giúp ích. Nếu không, quý vị sẽ càu nhàu trầm uất và khiến nhiều người quanh mình khó chịu. Khi quý vị nổi sân, đủ loại niệm tưởng tiêu cực, khó áp chế tràn ngập tâm quý vị.
Nếu quý vị trầm uất vì rơi vào một tình cảnh nào đó, có thể vận dụng các phương pháp thiền định dành cho các tình huống cụ thể. Nhưng nếu chỉ cảm thấy buồn bã vô cớ thì tốt nhất là thực hành tâm Bồ đề.
Quý vị có thể tụng bài kệ trong lễ cúng dường Đạo sư (Guru Puja) “Xin hãy gia trì cho con để con nhận chân căn bệnh vị kỷ ái ngã là cánh cửa dẫn đến những khổ đau không mong muốn.” Hãy trách cứ những tư tưởng ma chướng vị kỷ gây ra trầm uất cho quý vị. Rồi tụng tiếp vần thơ kế: “Xin hãy gia trì cho con để con nhận biết rằng ái trọng tha nhân, tâm Bồ đề, tâm dẫn dắt hết thảy chúng sinh mẹ đến bến bờ hỷ lạc là cánh cửa dẫn vào những phẩm tính thiện đức toàn hảo.”
Một trích dẫn khác trong lễ cúng dường Đạo sư là: “Ngay cả khi tất cả chúng sinh thành kẻ thù của con, con xin nguyện yêu thương họ hơn cả cuộc sống của con.” Nếu quý vị có thể đọc những bài tụng này hàng ngày thì hết sức lợi lạc, đặc biệt vào những lúc quý vị cảm thấy trầm uất. Như thế, quý vị sẽ dùng chính phiền não buồn khổ của mình để thực hành ý nghĩa của hai đoạn kệ tụng này; rằng tất cả mọi trục trặc và khổ não đều từ tâm vị kỷ ái ngã mà ra, cho nên “cái tôi” phải là đối tượng bị bác bỏ, phải bị khước từ. Tất cả nguồn hỷ lạc của quý vị và của tha nhân, bao gồm mọi chứng đắc cho đến khi giác ngộ viên mãn - mọi hạnh toàn hảo và phúc lạc đều đến từ tâm thương yêu ái trọng tha nhân, gọi là tâm Bồ đề.
Vì rằng tất cả những điều thánh thiện đều do tâm ái trọng tha nhân mà sinh ra, chúng nương dựa vào chúng sinh. Do vậy, chúng sinh hữu tình phải luôn được mãi yêu thương ái trọng. Quý vị phải đền đáp lại lòng nhân từ của chúng sinh quý giá này, giúp họ bằng bất cứ cách gì có thể. Làm sao để thực hiện được điều này đây? Có hàng triệu vô số lần họ đã sinh trong thân làm vua chúa nhưng chẳng có quyền lực hay sự giàu sang nào có thể giải thoát họ khỏi khổ đau của sinh tử. Cách tốt nhất để đền đáp lòng nhân từ của họ là hãy thực hành pháp Lamrim để chuyển hóa tâm thức vô minh, bám luyến, vị kỷ thành một tâm lành mạnh thuần khiết. Bằng cách tu tập đạo lộ đến giác ngộ, quý vị sẽ dễ dàng giải thoát những chúng sinh khác. Do vậy, phương cách tốt nhất để đền đáp lòng nhân từ của chúng sinh là thiền định và trau dồi tâm Bồ đề trong tâm thức.
Nhận.
Mọi chúng sinh đều là cội nguồn của toàn thể quá khứ, hiện tại và tương lai của quý vị. Hãy phát khởi tâm bi mẫn bằng cách suy niệm thế này: “Tôi sẽ nhận về tim mình tất cả khổ đau và mầm mống khổ đau (những phiền não và các chủng tử nghiệp bất thiện) bao hàm cả lửa thiêu trong các địa ngục nóng, đá buốt trong những tầng địa ngục băng giá và tất cả những hoàn cảnh bức bách khó chịu, xấu xí, loạn lạc nhiễm ô của loài người.” Suy nghĩ này sẽ triệt tiêu thái độ vị kỷ ái ngã. Một khi tâm vị kỷ ái ngã bị tiêu diệt, quý vị nên có một thời thiền ngắn về tánh không.
Cho
Sau khi tâm vị kỷ ái ngã bị diệt trừ, hãy lan tỏa yêu thương bằng cách cho đi nguồn hạnh phúc riêng của quý vị, công đức của quý vị và tất cả những thứ tốt đẹp mà quý vị có được gồm cả thân thể, sự giàu sang và các tài sản sở hữu. Tất cả mọi mong nguyện của chúng sinh đều được hoàn mãn như thể họ sở hữu viên bảo châu như ý. Khi trao tặng cho họ những điều này, quý vị đã khởi tạo một lượng công đức không thể diễn tả. Quý vị có thể tụng chú trong lúc họ thọ nhận mọi thứ mà họ cần và mong có. Thực ra, họ không nhận biết cái họ thực sự cần là gì đâu. Cái điều mà họ cần là gặp được chánh Pháp. Nhưng nếu không hiểu được lợi lạc của chánh pháp, họ sẽ sở cầu những thứ không phải là chánh pháp.
Thọ nhận những điều tốt đẹp như thế giúp họ hiện thực hóa con đường tâm linh, thanh tịnh 2 chướng (để thành tựu giải thoát và giác ngộ). Họ thành tựu sắc thân của đức Phật và chứng đắc giác ngộ. Hãy nghĩ như vầy: Những điều mình làm vì chúng sinh mới thù thắng làm sao! Mình đã bao phen vào ra sinh tử trong các tiền kiếp khi làm việc chỉ vì lợi lạc của riêng mình và chẳng chứng ngộ được bất cứ điều gì. Mình vẫn lang thang trong luân hồi. Mình chưa bao giờ xả thân khi đang phụng sự các chúng sinh khác. Ngay cả nếu phải xả thân vì lợi ích của tha nhân, giúp họ chấm dứt tạo nghiệp bất thiện để không tái sinh vào các ác đạo và vì tâm thức của họ chuyển hóa thành pháp thân và sắc thân của chư Phật rồi chứng đắc giác ngộ, thì đây cũng là điều vô cùng lợi lạc đáng làm.
Thiền quán về lòng từ mẫn bao la và sự quý giá của hết thảy chúng hữu tình. “Mọi chúng sinh mẹ đều là cội nguồn hỷ lạc quá khứ, hiện tại và vị lai của con. Chư Phật, Pháp và Chúng chung tôn đời vị lai thị hiện tịnh hóa các ác nghiệp bất tịnh của con nhằm giúp con thành tựu mọi chứng đắc và quả vị giác ngộ. Tất cả những điều này diễn ra trên cơ sở của những chúng sinh khác. Vì vậy, mọi chúng hữu tình là điều quý giá nhất đời con Bất kỳ điều gì thực hiện không vì phụng sự cho chúng sinh đều hoàn toàn vô nghĩa.” Điều này bao hàm cả chịu đựng trầm uất phiền não thay cho họ. Không có gì sánh bằng làm việc vì lợi lạc của chúng sinh. Những điều khác đều vô nghĩa cả. Chịu thay phiền não khổ đau cho họ bằng cách suy nghĩ rằng đây không phải là phiền não của bản thân tôi nhưng là phiền não của vô lượng chúng sinh, đây là phiền não của họ, khổ đau của họ. Thật thù thắng khi trao cho họ phúc lạc của giải thoát khổ đau trong sinh tử và ân sủng hỷ lạc của  quả vị giác ngộ viên mãn!
Hãy cảm nhận niềm hỷ lạc từ đó! Đây là phiền não của chúng sinh, vì thế điều thù thắng nhất là chịu đựng phiền não thay họ và giúp những ai đang khổ đau vì nhiễm tâm phiền não được tận hưởng hạnh phúc. Hãy hoan hỉ vì quý vị đã thọ nhận cơ hội trải nghiệm khổ đau vì kẻ khác. “Thật tuyệt diệu biết bao khi con chịu đựng khổ não thay cho hết thảy chúng hữu tình!”
Hãy thực hành pháp Tong=len (cho và nhận) vào giấc sáng, chiều và tối.
Suy đi ngẫm lại: “Con thật sự may mắn biết bao khi có thể chịu đựng đau khổ thay cho người. Con đã nguyện cầu để nhận tất cả khổ não của chúng sinh về mình và những cầu nguyện đó sẽ trở thành hiện thực. Thật kỳ diệu thay! Nó làm đời sống của con thật giàu có và tràn đầy ý nghĩa. Thật cát tường biết bao khi con chịu thay đau khổ này cho hết thảy chúng hữu tình.”
Hãy nghĩ về ý nghĩa đời mình, một phương pháp tâm lý có thể tạo sự khác biệt đáng kể bởi vì phần lớn đau khổ là do khái niệm về đau đớn bị khuếch đại của bạn. Hoàn toàn có thể giảm thiểu hoặc thậm chí loại trừ hoàn toàn phiền não đau đớn bằng tâm thức. “Mục đích đời con không chỉ là để mạnh khỏe, giàu sang, có thanh danh sự nghiệp, nhiều bạn bè bằng hữu. Ngay cả nếu con có tất cả những thứ này, đó cũng không phải là cùng đích của đời con. Ngay cả nếu con có thọ mạng một ngàn năm tuổi hoặc sung mãn khỏe mạnh trong ngàn đại kiếp, nếu trong con không có yêu thương và bi mẫn thì cuộc đời thật vô nghĩa và vô dụng, vì rằng con chẳng thể mang lại ích lợi gì cho ai cả. Sống như thế thật trống rỗng. Vì vậy, bất chấp chuyện gì xảy ra trong đời cũng chẳng là gì hết, con có hay không có sức khỏe, phiền não hay không phiền não, mắc hay không mắc bệnh ung thư, giàu có hay nghèo túng. Mục đích thực của cuộc đời con là làm cho cái chết của con cũng lợi lạc kẻ khác.
Ngay cả nếu mắc bệnh ung thư, con cũng sẽ làm cho kinh nghiệm bệnh tật ấy hữu ích cho chúng hữu tình bằng cách dùng bệnh tật để trau dồi lòng bi mẫn và tâm Bồ đề, để thành tựu chứng đắc và giác ngộ viên mãn. Như thế, căn bệnh ung thư sẽ trở thành nhân của phúc lạc. Phiền não đau khổ cũng có thể được sử dụng để thành tựu giác ngộ vì lợi ích tất cả chúng sinh trong đời này và đời này những kiếp sau, đăc biệt tất cả những ai chịu khổ đau vì trầm uất phiền não – cũng giống như dùng nọc độc của rắn để bào chế ra vị thuốc trị nọc độc rắn vậy.
Quý vị sử dụng phiền não để chứng đạt giác ngộ. Theo cách này, nó sẽ trở thành nhân của hạnh phúc cho hết thảy chúng hữu tình đang gánh chịu phiền não khổ đau.  Hãy nghĩ thế này: “Mục đích chính của cuộc đời là vì lợi ích của chúng sinh, để giải thoát họ khỏi khổ đau và mang đến phúc lạc đời này và những đời sau. Ngay cả nếu con có mắc bệnh ung thư, nhiễm bệnh AIDS, bị phiền não giày vò v.v…, mục đích của đời con là mang phúc lạc đến cho tất cả chúng hữu tình bằng cách chịu thay họ những khổ não buồn đau.” Bằng cách này, cái trầm uất đau khổ lại trở thành con đường nhanh để dẫn đến giác ngộ. Tương tự đối với căn bệnh ung thư. Hãy dùng nó để nhanh chóng thành tựu giác ngộ. Nếu chịu đựng thay cho chúng sinh khác vì lợi ích của họ thì đây sẽ trở thành con đường giác ngộ nhanh chóng, vì chịu khổ đau thay cho chúng sinh khác là một sự tịnh hóa hết sức vi diệu thù thắng. Cực kỳ tuyệt hảo!

Có một vị tăng ở Thái Lan đi kinh hành xuyên đất nước này. Khi ông tới một con sông lớn, bên bờ sông có một người phụ nữ bị bệnh hủi và máu mủ rỉ ra từ những vết thương của bà. Bà xin vị tăng cõng qua con sông nhưng ông từ chối giải thích rằng ông không thể phạm giới mà đụng vào thân thể phụ nữ. Sau đó một thời gian, một trong những đệ tử của vị tăng này cũng đi kinh hành qua đây và khi nhìn thấy người đàn bà tội nghiệp ấy, lòng từ mẫn bao la dâng tràn trong tâm ông. Không nề hà, ông đã bế người phụ nữ lên và cõng bà qua sông dù thân thể bà có nhiều vết thương còn đang lở loét. Khi đến giữa dòng sông, người phụ nữ thị hiện thành một Yogini Kim Cương trì và chuyển cả thân và tâm của vị tăng này về cõi tịnh độ của Yogini Kim Cương trì. Có nghĩa là từ đây, vị tăng này đã chứng quả vị giác ngộ viên mãn, vì bất kỳ ai đặt chân đến cõi tịnh của Yogini Kim Cương trì thì đều chứng đắc giác ngộ tại đó.  Sinh vào một cõi tịnh độ là cách nhanh nhất để thành tựu giác ngộ nếu điều đó chưa xảy ra trong kiếp hiện tiền của chúng ta. Trong trường hợp này Yogini Kim cương trì đã thị hiện trong thân một người đàn bà phàm thường tội nghiệp mắc bệnh hủi để đánh thức tâm đại bi của người đệ tử. Tâm đại bi này nhanh chóng tịnh hóa toàn bộ ác nghiệp nặng nề đã che chướng ông không nhìn thấy vị Yogini Kim Cương trì.
Trong trường hợp của vị đại hành giả Tây Tạng, ngài Milarepa, những khối nghiệp quả ngăn cản ngài nhìn thấy Yogini Kim Cương trì đã được thanh tịnh hóa nhờ vào sự phụng sự thuần tịnh của ngài đối với vị Thầy thánh tăng Marpa.
Cũng tương tự cho quý vị. Nếu trên cơ sở kinh nghiệm được một tâm đại bi mạnh mẽ chịu khổ đau thay cho chúng sinh, sự thiền định chịu đựng đau khổ thay cho tha nhân sẽ là con đường nhanh dẫn đến quả vị giác ngộ, cũng giống như tấm gương của vị tăng kia. Đó là con đường nhanh dẫn đến quả vị giác ngộ vì kinh nghiệm căn bệnh ung thư, trầm uất khổ não hay bất kỳ một đau khổ nào vì lợi ích hữu tình đều có tác dụng thanh tịnh hóa ngoài sức tưởng tượng.
Đau khổ vì phiền não có thể lợi lạc vì nó cho phép quý vị dễ dàng nhìn thấy nỗi đau của kẻ khác. Dùng kinh nghiệm về đau khổ riêng của bản thân, quý vị có thể cảm nhận một cách rõ ràng những đau đớn không sao chịu thấu của vô số hằng hà chúng sinh khác. Có rất nhiều người bị phiền não giày vò và nhiều người khác đang tạo ác nghiệp sẽ phải hứng chịu trong những kiếp vị lai. Hứng chịu phiền não đau khổ thay cho họ có lẽ còn mãnh liệt hơn là thực hành pháp mật tông vì nếu hành mật tông không đúng cách, dựa trên cơ sở của căn bản ba đạo lộ, thì đó sẽ không phải là con đường nhanh dẫn đến giác ngộ.
Khi cảm thấy phiền não tiêu cực quý vị có thể tự nhủ thế này: “Mình đã tiêu trừ rất nhiều ác nghiệp phiền não tích lũy qua vô lượng kiếp trong quá khứ.” Hãy hoan hỉ! Quý vị phải cảm thấy suối nguồn hỷ lạc vô biên khi được trả nghiệp thay vì xem phiền não như điều gì đó không hay không tốt.
Như có đề cập trong lễ cúng dường Đạo sư, chúng hữu tình và hoàn cảnh sống của họ chồng chất đầy phiền não, ác nạn không sao tưởng tượng nổi, chúng nối đuôi nhau hết cái này đến cái khác như mưa sa,  khổ não là hậu quả của các bất thiện nghiệp. “Xin hãy cho con nguồn ân sủng để con nhận ra khổ đau phiền não của con như là cách tiêu trừ các chủng tử nghiệp bất thiện, và gia trì cho con luôn có năng lực chuyển hóa nghịch cảnh thành đường tu giác ngộ.” Quý vị có thể tụng đọc chú này trong khi thiền định.
Ví dụ, khi quý vị giặt một miếng vải dơ bẩn, nước đen chảy ra với bụi đất. Quý vị đâu có xem đất bẩn đấy là thứ xấu vì điều đó có nghĩa là mảnh vải của quý vị giặt sẽ thành sạch sẽ. Cũng như thế, khi quý vị thực hành pháp thì các nghiệp tiêu cực có thể trổ chín làm cho quý vị mắc bệnh, do quý vị đã thanh tẩy rất nhiều bất thiện nghiệp qua thực hành pháp. Vì thế, quý vị phải vui mừng hoan hỉ khi mình u buồn trầm uất!
Phiền não đau khổ mà có đầu tiên là do chúng ta bị chi phối bởi ngã, bởi tâm vị kỷ ái trọng tự thân, bởi bám luyến, sân hận, bởi phá hỏng thệ nguyện và các hành vi làm buồn lòng các bậc đạo sư linh thiêng, những vị thầy tâm linh trong các kiếp quá khứ. Phiền não đau khổ này gây ra bởi ngã, bởi tâm vị kỷ chấp hữu. Vậy, thay vì chấp nhận cái trầm uất đó  thì hãy trả nó về với cái tâm vị kỷ ái ngã. Dùng phiền não như trái bom để công phá niệm tưởng lầm lạc về bản ngã. Sau đó hãy thiền quán về tính không của một cái ngã hiện hữu độc lập.
Đây là một số phương cách sự dụng tâm phiền não trầm uất để thành tựu giác ngộ nhanh chóng. Sử dụng nó để trau dồi lòng từ ái và tâm Bồ đề, quý vị có thể tích lũy công đức vô lượng bao la như hư không và thanh tịnh một lượng ác nghiệp không thể tưởng tưởng được. Nó được sử dụng như trái bom mạnh mẽ công phá suy niệm lầm lạc về sự cái ngã hiện hữu có tự tính, cái đã gây ra đau buồn phiền não cho chúng ta. Nó chính là ma chướng cản lối giác ngộ và giải thoát của quý vị khỏi luân hồi sinh tử và là cánh cửa dẫn đến mọi phiền toái khổ đau.
Quý vị cũng cò thể thực hành một số pháp tu dự bị như tụng Kim Cang Tát Đỏa để thanh tịnh nghiệp bất thiện đã gây ra phiền não.


Hiểu sân hận

Lama Zopa thuyết giảng tại Boulder Creek, California, 1997.
Chân Như chuyển Việt ngữ.

Tính không là phương thuốc chữa trị viên đá tảng của mọi vọng tưởng -  tức vô minh, vì làm được như thế, mọi vọng tưởng khác sẽ tan biến hết. Giây phút hành giả thiền định về tính không thì sự sân hận chẳng hạn, sẽ ngưng dứt. Sân hận khởi  khi quý vị tin vào một bản ngã hư dối, cảnh hiện hư dối – những thứ không thực có. Do vậy, khi thiền định về tính không của bản ngã và của các sự vật hiện tượng khác, chẳng còn cơ sở nào cho sân hận tồn tại. Đây là pháp đối trị mạnh mẽ nhất. Nhưng nếu sân hận khởi lên trở lại, đó là vì không có sự thực hành thiền định liền lạc; thiền định và chánh niệm đã ngưng lại. Vấn đề là phải nhớ cho được kỹ thuật thiền định. Một khi nhớ được kỹ thuật thì sẽ luôn có kết quả. Khi quý vị không nhớ kỹ thuật, thiền định bị trì hoãn, vọng tưởng, sân hận v.v…  sẽ dấy khởi và sai xử quý vị.
Một điều tôi chia sẻ với mọi người là hãy luôn nhớ nghĩ về nghiệp. Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nói rằng Phật giáo không tin vào một vị chúa tể nào. Triết lý Phật giáo căn bản giúp quý vị nhớ rằng không có cái tâm riêng biệt nào ngoài cái tâm tạo tác ra cuộc sống của quý vị, tạo tác nghiệp của quý vị. Bất kỳ điều gì xảy đến trong đời đều từ tâm mà ra. Những hợp uẩn, những tri kiến về giác quan, cảm xúc, buồn vui v.v… toàn bộ thế giới của quý vị bắt nguồn từ tâm thức của quý vị. Các chủng tử của thiện nghiệp và bất thiện nghiệp trong các tiền kiếp lưu vết trên dòng tâm thức sẽ tự hiển bày và chín mùi. Các chủng tử để hình thành thân người, các giác quan, tri kiến, các uẩn và tất cả những cảm thọ, mọi điều báo ứng tại thời điểm này và tất cả đều do dòng tâm thức, do nghiệp.
Nếu thiền định về tính không của quý vị không mấy hiệu quả thì huấn thị về nghiệp sẽ cực kỳ mạnh mẽ đối với hàng phàm thường như chúng ta. Khi thiền quán về nghiệp, tâm sẽ không còn chỗ dành cho sân hận vì rằng chẳng có gì để trách cứ hay đổ thừa cả. Suy niệm về nghiệp là thực hành triết lý Phật giáo cơ bản, tức là chẳng có đấng sáng tạo nào ngoài chính tâm của quý vị.  Đây không chỉ là một giáo lý phổ thông của Phật giáo mà còn là một kỹ thuật hết sức hiệu nghiệm. Sân hận dựa trên cái tin vào một đấng sáng tạo: có một ai đó đã gây ra việc nọ việc kia; chuyện này xảy ra là vì người này người kia. Trong đời sống hàng ngày, khi có chuyện xảy ra, chúng ta hành xử như thể chuyện này do ai đó gây ra thay vì thực hành nguyện tắc không có ai tạo tác cả. Ngay cả khi không sử dụng từ Đấng sáng tạo thì chúng ta cũng vẫn tin là có ai đó gây ra sự thể này cho ta. Khi suy niệm về nghiệp và liễu tri rằng chẳng hề có một chủ thể tạo tác nào thì sẽ không có một căn cứ nào để nổi sân cả.
Quý vị nên nghĩ như vầy: trong quá khứ, mình đã gây tổn hại cho các chúng sinh khác, vì vậy mình đáng phải chịu những tổn hại do chúng sinh khác mang tới. Khi nổi sân, thật ra quý vị đang thể hiện là ta đây có quyền gây tổn thương cho người, nhưng lại cho rằng người không được phép gây tổn hại cho ta. Điều này hết sức phi lý. Vì thế trong thực hành này, quý vị hãy nói: “Mình đáng bị gánh chịu tổn thương này.”
Một thực hành khác là sử dụng tình huống này để phát triển tâm bi mẫn: tôi phải chịu tổn hại này là do nghiệp của tôi. Ai khởi tạo tất cả những đau khổ phiền lụy này đây? Không phải ai khác mà do hành động của chính tôi.
Quý vị đã xử sự với các chúng sinh khác như thế trong các tiền kiếp thì đấy là lý do tại sao quý vị phải gánh chịu tổn hại trong kiếp hiện tiền. Nghiệp quả báo ứng nên ở kiếp này người ta hãm hại quý vị. Đối tượng gây tổn hại tái sinh trong thân người ở tiếp hiện tiền và họ tổn hại quý vị là do quý vị tạo tác cái nhân trước đó trong tiền kiếp. Khi gây tổn hại như thế, những chúng sinh kia lại tạo thêm nhiều bất thiện nghiệp và đánh mất cơ hội tái sinh trong thân người, lại phải quay lại các cõi thấp kém. Phải chăng vì ta mà họ phải lưu lạc trong ác đạo?
Bằng  cách này,  quý vị đang vận dụng những khó khăn chướng ngại để phát tâm Bồ đề. Điều này nghĩa là quý vị có thể trau dồi đường tu Đại thừa, hiển hay mật, để thực chứng giác ngộ, bao gồm cả Sáu hạnh toàn hảo. Hành giả có thể triệt phá mọi lỗi lầm của tâm để thành tựu giác ngộ. Vậy, nhờ vào lòng từ mẫn của đối tượng gây tổn hại mà quý vị có thể phát tâm bồ đề, độ thoát chúng sinh khỏi khổ, đưa họ đến bờ giác và mang đến nguồn hỷ lạc toàn hảo cho họ.
Quý vị cũng có thể nghĩ thế này: qua việc thực hành tâm bi mẫn với đối tượng sân hận mình, mình có thể phát tâm bi mẫn hướng tới mọi chúng sinh. Đối tượng này, thật nhân hậu, thật quý giá, y đang giúp ta dừng việc tổn hại các chúng sinh khác và trên hết y đang nhận được sự trợ giúp của ta. Vì ta không gây hại cho y nên an lạc hạnh phúc sẽ tràn về. Ngoài ra, khi nhận được sự trợ giúp của ta, vô lượng chúng hữu tình thọ nhận an bình và hỷ lạc. Nguồn hạnh phúc hỷ lạc mà quý vị có thể trao tặng cho chúng hữu tình đến từ đối tượng này.
Theo huấn thị của các bậc Thầy Kadampa, có sáu kỹ thuật thực hành hạnh nhẫn. Thầy sẽ không đi hết các kỹ thuật ấy ở đây. Quý vị có thể nhớ lại hoặc chép xuống mà thực hành.
Một điểm nữa cũng rất lợi lạc là những huấn thị mà Pabongka Rinpoche đã giảng giải trong tác phẩm Giải Thoát Trong Lòng Tay: nhìn chung quý vị không nên nổi giận với cây gậy người ta dùng để quất mình. Cây gậy là do người ta điều khiển nên chẳng có lý gì để nổi sân với nó. Tương tự, thân, ngữ, ý của người đó hoàn toàn bị sân hận và vọng tưởng sai xử khống chế. Thân, ngữ, ý của người đó trở thành tôi tớ, hoàn toàn bị sân hận sai xử như một công cụ mà thôi. Bản thân người đó cũng chẳng có một chút tự do nào. Vì không có tự do nên họ phải trở thành đối tượng của lòng bi mẫn của chúng ta. Không những thế, ta phải có trách nhiệm giúp xoa dịu cơn sân cho họ. Bằng bất kỳ cách gì có thể, hãy trợ giúp tâm người ấy, xoa dịu hận thù. Cho dù không thể làm được gì thì quý vị hãy cầu nguyện chư Phật, giáo Pháp và Thánh chúng để làm dịu tâm thức của người ấy.
Điều mà Thánh đức Đạt Lai Lạt Ma thường khuyên dạy là ta nên thiền quán về đối tượng sân hận mình, nhìn thấy họ nhân hậu như thế nào, họ quý giá như giáo Pháp, như chư Phật hay bậc Đạo sư ra sao, họ nhân từ tựa chư Phật và bậc Đạo sư như thế nào. Kết luận lại là: nếu chẳng ai khởi tâm sân hận với quý vị thì làm sao quý vị có thể trau dồi hạnh nhẫn. Nếu ai cũng yêu quý mình thì làm sao có thể phát triển phẩm chất quý báu của tính kham nhẫn, đường tu của hạnh nhẫn. Vì thế, nên có một ai đó trong đời khởi tâm sân hận với ta là cực kỳ thiết yếu. Người khác nổi sân với ta là quý giá lắm, hệ trọng lắm! Quý giá không phải cho họ mà là cho ta. Với kẻ khởi tâm sân, đó là sự giằng xé giống như kiếp sống trong các ác đạo. Còn với chúng ta, họ lại thật sự quý giá. Chúng ta cần sự sân hận đó, thật sự cần.
Có một ai đó yêu quý mình là quan trọng nhưng có ai đó sân hận mình lại càng quan trọng hơn. Quý vị thấy đó, nếu người ta ai cũng thương quý mình thì đâu có giúp được quý vị độ tha hay chứng đắc toàn bộ đạo lộ giác ngộ. Cho nên với Thầy, người sân hận mình là người quý giá nhất. Cơn sân hận của họ chính là viên ngọc như ý.

Sân hận thiêu hủy công đức quý vị tích lũy, phá tan suối nguồn hỷ lạc không chỉ trong đời sống hàng ngày mà cả trong nguồn hạnh phúc dài lâu. Như trong bộ luận Nhập Bồ Tát Hạnh đã từng đề cập, một cơn sân hận phá hỏng chứng ngộ của ngàn kiếp tu. Vì thế, nhờ người nổi sân với tôi mà  tôi có thể trau dồi hạnh nhẫn, điều phục cơn sân của mình, và thành tựu toàn bộ đường tu giác ngộ. Quý vị có thể hoàn mãn hai loại công đức, chặt đứt mọi che chướng để đạt giác ngộ và giải thoát tất cả hữu tình, dẫn họ về nẻo giác. 

Tám Thi Kệ Luyện Tâm


BÌNH GIẢNG VỀ TÁM THI KỆ LUYỆN TÂM
Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV


Phát triển tâm Bồ đề là cốt tủy của giáo pháp Phật giáo và là đường tu chính yếu. Một khi phát triển tâm Bồ đề diễn tiến, hành giả phải nỗ lực thực hành nguyên tắc tâm vị tha độ lượng suốt đời mình. Điều này dẫn đến khái niệm mà chúng ta thường biết đến là “Lý tưởng Bồ tát” bao gồm cả “Sáu hạnh toàn hảo”: thí, giới, nhẫn, tấn, định và tuệ.

Tôi muốn nhấn mạnh sự thực hành lòng từ ái là tâm điểm của toàn bộ đường tu. Tất cả các pháp hành khác sẽ là các pháp tu dự bị hoặc là nền tảng để tu tâm từ ái hoặc là những thực hành đi sau pháp hành cốt lõi này. Tôi cũng muốn chỉ ra ở đây rằng có một sự nhất trí chung giữa các tông phái Phật giáo,cả Đại thừa và các tông phái không phải Đại thừa, về điểm này. Như vậy, lòng từ ái nằm ở cội rễ của tất cả các giáo pháp của Đức Phật, nhưng chỉ bên trong lý tưởng Bồ tát chúng ta mới có thể tìm thấy sự chú trọng đặc biệt về phát triển phối hợp của tâm từ ái qua việc tu dưỡng tâm Bồ đề.

TÁM THI KỆ CHUYỂN TÂM

Ý nguyện thành tựu lợi tối thắng
Với con, tất cả loài hữu tình
Còn hơn cả Bảo Châu Như Ý
Nguyện thường luôn giữ gìn lòng ái trọng.

Trong bài kệ này, quý vị phát nguyện xem tất cả chúng hữu tình vô cùng trân quý bởi vì họ chính là nền tảng giúp quý vị thành tựu mục đích cao cả nhất, tức là mang lại lợi ích cho hết thảy chúng sinh. Mục tiêu này còn siêu vượt cả viên ngọc như ý kỳ diệu, vì rằng ngọc như ý tuy rất mực quý hiếm nhưng nó không thể mang lại sự chứng đắc tâm linh tối thượng. Ở đây cũng có đề cập đến lòng từ bi của chúng hữu tình. Chính nhờ chúng hữu tình mà quý vị có thể phát triển tâm đại bi, nguyên tắc tâm linh cao cả nhất, và cũng nhờ chúng hữu tình mà quý vị có thể phát triển tâm Bồ đề, tâm nguyện vị tha. Như vậy nương vào căn bản đối đãi của quý vị với người khác mà quý vị có thể thành tựu những chứng ngộ tâm linh tối thượng. Trên quan điểm này, lòng từ bi của chúng sinh mẹ rất sâu sắc.

Khi trưởng dưỡng tâm niệm luôn gìn giữ chúng sinh vô cùng trân quý, điều quan trọng phải hiểu được là quý vị không nuôi dưỡng loại tình cảm thương hại mà đôi khi chúng ta hay dành cho những người kém may mắn hơn mình. Với lòng thương hại, quý vị sẽ có khuynh hướng xem thường đối tượng của lòng từvà có chút cảm giác xem mình cao hơn người khác. Giữ gìn trân quý tha nhân thật ra có ý nghĩa ngược lại với điều trên. Trong pháp hành này, khi nhận thấy lòng từ ái của người đối với mình và hiểu sự cần thiết của họ ra sao trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta trân quý tầm quan trọng lớn lao và ảnh hưởng của họ, và vì thế, trong tâm trí ta sẽ mặc nhiên xem họ ở địa vị cao hơn mình. Vì suy tư về chúng sinh theo hướng như vậy, quý vị sẽ luôn luôn giữ gìn, kính quý và yêu thương họ. Thế nên, khổ thơ thứ hai viết:

Khi kết thân với bất kỳ ai
Xem chính con thấp hơn tất cả
Tận đáy lòng xin tôn kính người
Nguyện hành trì tôn kính thương yêu.

Khổ thơ này chỉ ra quan điểm mà tôi vừa diễn đạt. Luôn xem bản thân mình thấp hơn người khác không nên được lầm hiểu thành việc chối bỏ bản thân, bỏ mặc những nhu cầu của bản thân hay cảm thấy mình là thứ vô vọng. Như tôi đã luận giảng trước đó, xuất phát từ một trạng thái tâm dũng mãnh mà quý vị có thể kết nối với người khác, nhận thức trọn vẹn khả năng mình có thể trợ giúp họ. Vì thế quý vị đừng ngộ nhận điểm này. Điều mà tôi muốn chỉ ra ở đây là quý vị cần có sự khiêm cung thật sự.

Tôi muốn kể cho quý vị một câu chuyện để minh họa điều này. Có một bậc hành giả vĩ đại sống cách chúng ta vài ba thế hệ, ngài tên là Dza Patrul Rinpoche. Ngài không chỉ là một bậc đại chứng ngộ mà còn có số lượng đồ chúng rất đông đảo. Ngài thường ban giảng giáo pháp cho hàng ngàn đệ tử. Nhưng là một thiền giả nên ngài thường biến mất trong những kỳ nhập thất ở nơi nọ nơi kia. Các học trò của ngài hay chạy tất tả đi tìm Thầy. Trong một kỳ hành hương, ngài trú ngụ vài ngày với một gia đình nọ, giống như nhiều người hành hương vẫn thường làm; Họ thường tìm nơi trú ngụ cùng với các gia đình Tạng trên đường đi hành hương và phụ họ làm việc này việc kia để đổi lấy bữa ăn. Vì vậy, Dza Patrul Rinpoche phụ giúp rất nhiều việc cho gia đình đó kể cả việc đổ bô cho bà mẹ già là việc ngài làm rất thường. Rốt cuộc một số đệ tử của ngài cũng đến được vùng đó và nghe ngóng được là Dza Patrul Rinpoche đang trú ngụ quanh đây. Một số tăng sĩ cuối cùng cũng đến được gia đình  này và hỏi người mẹ: “Bà có biết Dza Patrul Rinpoche ở đâu không?” Bà mẹ trả lời rằng: “Tôi nào biết Dza Patrul Rinpoche có ở đây!” Các tăng sĩ bấy giờ mới miêu tả dáng dấp của ngài cho bà nghe và nói thêm là: “Chúng tôi nghe nói ngài đang trú ngụ trong nhà bà như một người đang đi hành hương.” Bà cụ la lên: “Ồ, chính là Dza Patrul Rinpoche đó sao!” Ngay đúng lúc đấy, Dza Patrul Rinpoche đang đi đổ bô cho bà cụ. Bà quá hoảng sợ bèn bỏ chạy.

Điều mà câu chuyện này muốn nói là ngay cả một Lạt ma vĩ đại như Patrul Rinpoche, vị Thầy có hàng ngàn ngàn đệ tử, người thường ban pháp trên những pháp tòa cao vời với nhiều tăng chúng vây quanh, có đức khiêm cung đích thực. Ngài chẳng hề do dự khi phải làm một công việc như đổ bô cho bà cụ.

Có một số phương pháp cụ thể để quý vị có thể thực hành xem mình thấp hơn người. Lấy ví dụ đơn giản, tất cả chúng ta đều biết từ kinh nghiệm là khi tập trung vào một đối tượng hay cá nhân cụ thể, tùy theo góc nhìn, chúng ta sẽ có quan điểm khác biệt. Thực tế, đây là bản chất của tư duy. Những ý nghĩ có thể chọn lọc chỉ những đặc tính biệt lập của một đối tượng nào đó ở một thời điểm nào đó, tư duy con người không có khả năng nhìn nhận trọn vẹn toàn bộ một đối tượng. Bản chất của tư duy là có sự sàng lọc. Khi nhận ra điều này, quý vị có thể thấy mình thấp hơn chúng sinh khác từ một góc cạnh nào đó ngay cả trong lòng từ ái với một con côn trùng tí hon. Chẳng hạn tôi so mình với một con côn trùng. Tôi là đệ tử của Đức Phật và là một người được trang bị khả năng tư duy, giả định là có thể xét đoán được đúng sai. Tôi cũng có một số kiến thức về giáo pháp cơ bản của Phật giáo và về mặt lý thuyết, tôi cam kết thực hành các giáo pháp này. Tuy nhiên, khi nhận thấy khuynh hướng tiêu cực khởi sinh hoặc khi tạo tác những hành động không tốt xuất phát từ những động cơ đó, nếu xét trên quan điểm như vậy, có trường hợp tôi thấy mình thấp kém hơn một con côn trùng. Xét cho cùng, một con côn trùng không có khả năng phán xét đúng sai theo cách của con người, nó cũng chẳng có khả năng nghĩ ngợi xa xôi và không thể hiểu được những điều phức tạp trong các huấn thị tâm linh, vì thế từ quan điểm Phật giáo, bất kỳ điều gì con côn trùng tạo tác đều là kết quả của sự huân tập và của nghiệp. Khi so sánh, loài người có khả năng quyết định hành động của mình. Nên nếu chúng ta hành động tiêu cực thì có thể luận là ta còn thua cả con côn trùng! Vậy khi suy niệm theo góc độ này, có cơ sở thật để thấy mình thấp hơn các chúng sinh khác.

Thi kệ thứ ba viết rằng:
Quán tâm mình trong mọi hành xử
Vọng tưởng, phiền não vừa dấy khởi
Gây nguy hại cho mình và người
Nguyện tìm cách trừ diệt lập tức.

Bài kệ này chỉ ra rằng, dù tất cả chúng ta - những hành giả tâm linh, mong muốn chế ngự những tình cảm bốc đồng, những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực nảy sinh từ nhiều thói quen cố hữu, nhiều khuynh hướng bất thiện cũng như do chưa đủ tinh tấn trong việc áp dụng các pháp đối trị để dẹp tan chúng, cho nên những cảm xúc và niệm tưởng đầy phiền não cứ mặc sức dấy khởi và khá cường liệt trong chúng ta. Trên thực tế, chúng mạnh đến mức chúng ta thường xuyên bị sai xử bởi các khuynh hướng bất thiện. Thi kệ này khuyên quý vị nên nhận thức điều này để luôn tỉnh táo. Phải thường xuyên kiểm soát bản thân và chú ý khi những khuynh hướng ác nổi lên. Nếu làm được như thế, quý vị sẽ không nhân nhượng với chúng. Quý vị có thể canh chừng liên tục và tránh xa những khuynh hướng đó. Bằng cách này, quý vị không gia lực cho chúng và sẽ tránh được sự bùng nổ những cảm xúc mạnh mẽ, những ngôn từ tiêu cực và hành vi do chúng thúc đẩy.

Song nhìn chung, điều này lại không như thế. Ngay cả khi nhận biết các cảm xúc phiền não rất tai hại song nếu chúng không quá căng thẳng thì quý vị hay tự nhủ: “Ồ, trường hợp này có lẽ chấp nhận được mà.” Quý vị có xu hướng xem nhẹ chúng. Vấn đề là càng huân tập với phiền não lâu chừng nào quý vị sẽ càng dễ để chúng tái diễn và càng dễ dàng nhượng bộ chúng. Điều này cho thấy cái tiêu cực sẽ lập đi lập lại. Vì vậy, giữ chánh niệm cực kỳ quan trọng, để bất cứ thời khắc nào khi những cảm xúc nhiễm ô phiền não trồi lên, quý vị có thể đối diện và ngăn chặn chúng ngay tức thì, như thi kệ đã kêu gọi chúng ta.

Hết sức quan trọng đặc biệt là đối với người tu theo Phật, phải thường xuyên kiểm tra lại mình trong đời sống hàng ngày, kiểm tra lại suy nghĩ, cảm xúc và thậm chí nếu có thể, ngay cả trong giấc mơ của mình. Khi thuần luyện chánh niệm tỉnh giác, dần dà quý vị sẽ có thể áp dụng chánh niệm thường xuyên ngày một nhiều hơn và chánh niệm sẽ trở thành một công cụ hiệu quả hơn.
Thi kệ kế tiếp viết:
Khi thấy chúng sinh bẩm tính ác
Bị tội khổ áp bức khốc liệt,
Như gặp được kho báu khó tìm
Con nguyện đem lòng yêu quý họ.

Bài kệ này đề cập đến trường hợp đặc biệt khi có những người bị cách ly khỏi cộng đồng có thể do hành vi hoặc diện mạo của họ,  hoặc do sự nghèo túng hay bệnh tật nào đó. Bất kỳ ai thực hành tâm Bồ đề sẽ phải ưu ái đặc biệt những đối tượng như thế, như thể khi gặp gỡ họ, quý vị đã tìm thấy một kho báu thật sự. Thay vì họ cảm thấy bị khước từ, một hành giả chân chính với thực hành tâm vị tha độ lượng cần cam kết và nhận lấy thử thách để cảm thông với họ. Trên thực tế, cách quý vị tiếp xúc với những đối tượng này có thể giúp kiến tạo một lực đẩy lớn trong phát triển tâm linh.

Tôi rất vui mừng khi nghe nói rằng một số trung tâm Phật giáo đang bắt đầu áp dụng những phương châm xử thế của Phật giáo vào đời sống xã hội. Chẳng hạn tôi có nghe nói các trung tâm Phật giáo đã tổ chức hình thức giáo dục tâm linh nào đó trong các nhà giam để có thể thuyết giảng cũng như tư vấn. Tôi cho rằng đây là một điển hình tuyệt vời. Hiển nhiên là vô cùng bất hạnh khi con người, ở đây là các phạm nhân, bị xã hội khước từ. Không chỉ vô cùng đau khổ cho họ mà trên bình diện rộng hơn, đây cũng là sự tổn thất cho toàn xã hội. Chúng ta không dành cho họ cơ hội đóng góp tích cực cho cộng đồng trong khi họ thật có những tiềm năng thực hiện việc này. Chính vì thế, tôi cho rằng điều thật quan trọng đối với toàn thể cộng đồng là không khước từ những cá nhân này, hãy chào đón họ và công nhận những đóng góp tiềm năng mà họ có thể mang lại. Có như vậy các phạm nhân mới cảm tìm thấy nơi nương tựa trong cộng đồng xã hội và bắt đầu tin rằng họ cũng có gì đó để hiến tặng.
Thi kệ tiếp theo viết thế này:

Có chúng sinh do tâm ghen ghét
Phi lý chửi mắng, phỉ báng con
Xin nhận hết phần thua về mình
Nguyện dâng tặng chúng sinh phần thắng.
Điểm muốn gửi gắm ở đây là khi có người khiêu khích chọc tức quý vị mà chẳng có lý do gì hoặc do sự bất công ngang trái, thay vì phản ứng một cách tiêu cực, quý vị hãy nhẫn nhịn họ như một hành giả đang thực hành tâm vị tha độ lượng. Hãy giữ tâm bình thản trước những hành xử như vậy. Trong thi kệ kế tiếp, quý vị sẽ học được rằng chúng ta không chỉ nhẫn nhục với những người như thế mà còn phải xem họ như những bậc thầy tâm linh nữa.

Đối với người con từng trợ giúp
Hoặc người con đặt nhiều kỳ vọng
Bỗng dưng vô cớ hãm hại con
Nguyện xem họ như bạn lành Tôn Sư.

Trong tác phẩm Nhập Bồ Tát Hạnh của ngài Tịch Thiên, có một phần luận bàn trên phạm vi rộng về phương pháp phát triển tâm này như thế nào và làm sao có thể thực sự học được cách xem những người gây tổn hại cho mình như những bậc thầy tâm linh. Trong tác phẩm Nhập Trung Quán của ngài Nguyệt Xứng cũng thế, có những phần giáo huấn đầy ắp cảm hứng và công hiệu về phương pháp vun bồi phẩm tính khiêm nhường và nhẫn nhục.

Thi kệ thứ bảy tóm lược lại tất cả các thực hành đã luận bàn. Kệ này viết như sau:

Tóm lại dù trực tiếp hay gián tiếp
Dâng mọi lợi lạc lên mẫu thân
Những tổn hại khổ đau của Mẹ
Nguyện bí mật nhận hết về mình.

Thi kệ này thể hiện một pháp hành đặc biệt của Phật giáo gọi là “Pháp hành cho và nhận” hay còn gọi là Tong-len. Bằng cách quán tưởng cho đi và nhận lại mà quý vị thực hành được pháp hoán chuyển và bình đẳng ngã tha. 

Pháp hành “Hoán chuyển và bình đẳng ngã tha” không nên hiểu theo nghĩa trực tiếp là biến mình thành người khác và biến người khác thành mình. Không làm như vậy được. Nghĩa ở đây phải được hiểu là sự đảo ngược thái độ mình thường có đối với bản thân và đối với người khác. Chúng ta thường có xu hướng xem cái gọi là “tôi” như phần cốt lõi quý giá nơi trung tâm của sự hiện hữu, một thứ gì đó thực sự xứng đáng chăm bẵm, đến mức chúng ta sẵn sàng bỏ mặc tất cả hạnh phúc của người khác. Thái độ của chúng ta đối với họ, thường là thờ ơ, cùng lắm chúng ta có thể có vài lưu tâm tới họ, nhưng ngay cả điều này cũng chỉ đơn giản ở mức độ cảm xúc và cảm nhận mà thôi. Nhìn chung, chúng ta hờ hững với hạnh phúc của người và chẳng bao giờ xem trọng. Vì vậy, điểm chú trọng của thực hành này là đảo ngược thái độ đó nhằm giảm thiểu cường độ của sự tham lam, bám luyến mà chúng ta dành cho bản thân và nỗ lực coi trọng hạnh phúc của người khác.

Khi tiếp cận các thực hành Phật giáo theo phương pháp này, có ý kiến cho rằng quý vị nên hứng chịu những hiểm họa và đau khổ cho bản thân, tôi cho rằng quý vị cần xem xét thận trọng điều này và hiểu rõ lời khuyên đó trong đúng ngữ cảnhlà cực kỳ hệ trọng. Điều ở đây thực sự muốn đề cập là: nếu trong quá trình thực hành con đường tu học tâm linh, quý vị đi đến hoàn cảnh phải gánh chịu những thử thách cam go hay kể cả khổ nạn thì hãy có sự chuẩn bị đầy đủ cho việc này. Huấn thị không ngụ ý nói rằng quý vị phải oán ghét hay bạc đãi bản thân, hoặc đâu đó phải mong muốn khổ nạn ập vào mình như nhục hình. Rất quan trọng khi quý vị hiểu rằng ý nghĩa điều này không phải như thế.

Một thí dụ khác mà quý vị không nên hiểu sai là một câu nói nổi tiếng của người Tạng: “Nguyện con có sự dũng mãnh khi cần để kinh qua a tăng tỳ kiếp, vô lượng kiếp bên trong tầng sâu nhất của địa ngục.” Điểm muốn chỉ ra ở đây là lòng quả cảm dũng mãnh của quý vị phải ở mức độ như thế, nếu quý vị cần góp một phần trong quá trình dấn thân vì lợi ích chúng hữu tình, quý vị phải có sự sẵn sàng và quyết tâm chấp nhận điều đó.

Hiểu đúng những phát biểu này cực kỳ hệ trọng, bởi vì khi hiểu sai, quý vị có thể sử dụng chúng để gia lực cho bất kỳ cảm xúc oán ghét bản thân, nghĩ rằng nếu cái ngã là hiện thân của vị kỷ thì phải ruồng bỏ bản thân vào quên lãng. Đừng quên rằng, cuối cùng thì những động lực đằng sau chí nguyện dấn thân vào con đường tu tập tâm linh là để chứng đắc hạnh phúc tối thượng, vì thế khi một cá nhân tìm cầu hạnh phúc cho bản thân là cũng đang tìm cầu hạnh phúc cho chúng sinh khác. Ngay cả trên bình diện thực tế, để một ai đó phát triển tâm từ ái chân thực đến những người khác, trước hết người đó phải có nền tảng  để vun bồi lòng từ ái và nền tảng đó chính là khả năng kết nối các cảm xúc riêng của mình và chăm sóc cho hạnh phúc của bản thân. Nếu không có khả năng thực hiện điều này, làm sao quý vị có thể kết nối với người khác và quan tâm đến họ? Chăm sóc người khác đòi hỏi quan tâm đến chính mình. Pháp hành Tong-len, cho đi và nhận lại, thâu tóm thực hành tâm từ ái và bi mẫn: thực hành cho đi chú trọng thực hành lòng từ ái trong khi thực hành nhận lại chú trọng vào thực hành tâm bi mẫn.

Ngài Tịch Thiên đưa ra một phương pháp thú vị về thực hành này trong bộ luận Nhập Bồ Tát Hạnh. Đó là sự quán tưởng giúp chúng ta nhận hiểu những khiếm khuyết của tâm vị kỷ và dạy chúng ta những phương cách đối trị nó. Một mặt quý vị quán tưởng cái ngã thường lệ của mình, cái ngã trơ cứng với hạnh phúc của chúng sinh khác và là hiện thân của sự ích kỷ. Đây chính là cái ngã chỉ biết lo toan cho lợi ích riêng mình, lo nhiều đến mức nó thường sẵn lòng tận dụng người khác một cách ngạo mạn để đạt được điều mình muốn.  Kế đến, một mặt khác, quý vị quán tưởng một nhóm các chúng sinh khác đang gặp khổ nạn mà không có ai che chở hay nương tựa. Quý vị có thể chú tâm vào những cá nhân cụ thể đó nếu muốn. Giả dụ, nếu muốn quán tưởng ai đó mà quý vị biết rõ và yêu thương và người đó đang gặp khổ nạn, quý vị có thể xem người đó là đối tượng cụ thể cho sự quán tưởng của mình và thực hành toàn bộ pháp hành cho đi, nhận lại đối với người ấy. Thứ ba, quý vị xem mình như một cá nhân trung lập hoặc là quan sát viên công minh đang nỗ lực đánh giá lợi ích của ai quan trọng hơn ở đây. Cô lập mình trong vị trí của người quan sát trung lập sẽ giúp cho quý vị dễ dàng nhìn nhận những hạn chế của tâm vị kỷ ái ngã và ngộ ra rằng sẽ công bằng và hợp lý hơn nhiều khi quan tâm đến hạnh phúc an vui của những chúng sinh khác.

Kết quả của quán tưởng này là quý vị sẽ từng bước bắt đầu cảm nhận mối đồng cảm với người khác và thấu cảm với đau khổ của họ. Tại thời điểm này, quý vị có thể khởi đầu thiền quán thật sự về cho và nhận.

Để thực hành thiền quán cho đi, thực hành một quán tưởng khác cũng rất lợi ích. Trước hết, quý vị chú tâm vào những chúng sinh đang gặp khổ nạn và cố gắng phát triển cũng như gia tăng lòng bi mẫn đối với họ, tới một điểm mà quý vị cảm thấy sự đau khổ của họ gần như không thể chịu đựng nổi. Tuy vậy cùng lúc, quý vị thấy mình thực tế không làm được gì nhiều để giúp đỡ họ cả.  Vì vậy với động cơ của lòng bi mẫn, để huấn luyện bản thân trở nên hiệu quả hơn, quý vị hãy quán tưởng mình gánh nhận hết những khổ đau của họ, những nguyên nhân gây ra khổ đau, những ý nghĩ và cảm xúc tiêu cực của họ v.v… Quý vị có thể thực hiện điều này bằng cách hình dung những khổ đau của họ và sự tiêu cực đó giống như một luồng khói đen, quý vị quán cho luồng khói đen đó hòa tan vào mình. Trong phạm vi của thực hành này, quý vị cũng có thể chia sẻ những thiện đức của mình với họ. Quý vị có thể nhớ lại những điều cao cả mình đã làm, bất kỳ tiềm năng tích cực nào ẩn chứa bên trong quý vị cũng như bất kỳ kiến thức tâm linh hay trí tuệ nội quán nào quý vị đã thành tựu. Hãy gửi gắm những thành quả ấy đến các chúng sinh khác để họ cũng cùng vui hưởng lợi ích. Quý vị có thể thực hiện điều này bằng cách mường tượng những phẩm hạnh của mình trong thểdạng ánh sáng chói lòa hoặc một luồng sáng màu trắng đi xuyên thấu qua các chúng sinh khác và thấm đẫm vào họ. Đây chính là thực hành quán tưởng cho đi và nhận lại.

Lẽ dĩ nhiên, loại thiền định này không mang lại lợi ích vật chất cụ thể cho chúng sinh vì nó ở dạng quán tưởng, nhưng thực hành có thể giúp tăng cường mối quan tâm của quý vị dành cho tha nhân và sự thấu cảm đối với khổ đau và cùng lúc giúp suy giảm bớt mãnh lực tâm vị kỷ trong chúng ta. Đây chính là những lợi ích của pháp hành này. Đây cũng là phương pháp thuần luyện tâm nhằm trưởng dưỡng chí nguyện giúp đỡ chúng sinh. Một khi chí nguyện này phát khởi cùng chí nguyện mong muốn chứng đắc giác ngộ viên mãn, quý vị thực chứng tâm Bồ đề, tâm nguyện từ bi muốn thành tựu sự toàn giác vì lợi ích của tất cả chúng sinh.

Thi kệ cuối cùng viết:

Tất cả nguyện trên cùng tám pháp
Không bị vọng tưởng làm ô nhiễm
Tâm biết các pháp như huyễn hóa
Nguyện giải thoát ràng buộc chấp trước.

Hai dòng dầu của bài kệ cực kỳ quan trọng đối với những hành giả chân chính. Tám bận tâm thế tục nhìn chung chính là những yếu tố khuynh đảo cuộc sống của chúng ta. Chúng khiến ta vui sướng khi được ngợi khen, trầm uất khi bị xúc phạm, hạnh phúc khi thành công, đau khổ khi thất bại, thấy sung sướng khi giàu sang, chán nản khi nghèo khó, thỏa mãn khi nổi danh và chán chường khi chẳng ai công nhận. Một hành giả chân chính phải xác quyết sự tu dưỡng tâm vị tha độ lượng không bị nhơ uế vì những bận tâm thế tục đó. Chẳng hạn khi đang giảng bài pháp này, nếu tôi chỉ cần có một chút tư tưởng thoáng qua hy vọng được người nghe ngưỡng mộ thì điều đó cho thấy động cơ giảng pháp của tôi đã bị nhiễm bẩn vì những suy tính trần tục, cái mà người Tây Tạng hay gọi là “tám mối bận tâm thế tục”. Rất quan trọng khi quý vị xét nét lại bản thân để chắc chắn mình không bị uế nhiễm như thế. Tương tự, một hành giả thực hành lý tưởng vị tha độ lượng trong đời sống hàng ngày, rồi thì ngay lập tức tám bận tâm thế tục đã làm uế nhiễm thực hành của người đó. Cũng tương tự như thế, nếu một hành giả nuôi hy vọng “mọi người sẽ ngưỡng mộ việc làm của ta”, trông mong nhận được những tán thán về những nỗ lực hành trì tinh tấn. Tất cả điều này chính là những tính toán danh vọng lợi dưỡng vốn sẽ phá hỏng sự tu tập của một hành giả. Đảm bảo những việc như thế này không xảy ra là rất quan trọng nhằm giúp quý vị duy trì sự thuần tịnh trong pháp hành.

Như quý vị đã thấy rồi đó, những chỉ dẫn trong giáo huấn lo-jong về chuyển tâm cực kỳ mạnh mẽ. Những chỉ dẫn buộc quý vị phải suy tư nghĩ ngợi. Ví dụ có một đoạn phát biểu như sau:
“Nguyện tôi luôn an vui khi bị coi khinh và chẳng hề hoan hỉ khi nghe lời tán thán. Nếu tôi thấy vui vì được khen thì lập tức tâm kiêu căng, ngạo mạn và đố kỵ sẽ nảy nở thêm trong tôi; Trong khi nếu tôi vui khi nghe lời chê bai thì chí ít nhờ đó tôi mới biết  khiếm khuyết của mình.”
Một quan điểm hết sức mạnh mẽ!

Ngang đây, chúng ta đã luận bàn về tất cả pháp hành liên quan đến sự trưởng dưỡng “tâm Bồ đề tương đối”, chí nguyện từ bi mong muốn thành tựu giác ngộ viên mãn để độ sinh. Giờ đây, hai dòng cuối cùng của tám thi kệ đề cập đến thực hành tu dưỡng tâm Bồ đề Cứu cánh, ngụ ý sự phát triển một nội quán về bản chất rốt ráo của hiện thực. Mặc dù phát triển trí tuệ là một phần của lý tưởng Bồ tát, hiện thân trong sáu hạnh ba la mật toàn hảo, như đã đề cập trước đó, nhìn chung có hai điểm tinh yếu trên đường tu, đó là phương tiện và trí tuệ. Cả hai đều nằm trong định nghĩa về sự giác ngộ, tức là tính bất nhị của hình thức toàn hảo và trí tuệ toàn hảo. Thực hành trí tuệ hay nội quán tương quan với sự toàn hảo của trí tuệ trong khi thực hành những phương tiện thiện xảo hay phương pháp tương quan với sự toàn hảo của hình thức.

Giáo pháp Đức Phật thường được thể hiện trong một khuôn khổ chung thường gọi là Căn Đạo Quả . Trước tiên quý vị trau dồi tri kiến về bản thể của hiện thực với hai mức độ hiên thực, đó là sự thật tương đối và sự thật tuyệt đối (nd: Tục đế và chân đế), đây chính là nền tảng.  Tiếp theo, trên đường tu thực sự, quý vị dần từng bước phối hợp thực hành thiền định và thực hành tâm linh như một khối phương tiện và trí tuệ. Quả tu cuối cùng của đường tu chính là tính bất nhị giữa hình thức toàn hảo và trí tuệ toàn hảo.

Hai dòng kệ cuối cùng viết:

Tâm biết các pháp như huyễn hóa,
Nguyện giải thoát ràng buộc chấp trước.

Hai câu thơ này thực chỉ ra pháp hành trưởng dưỡng nội quán về bản chất của hiện thực, song nếu nhìn thoáng trên bề mặt, dường như những câu thơ này biểu hiện cách thức người tu liên kết với đời sống bên ngoài trong giai đoạn xả thiền. Giáo lý nhà Phật giảng giải về bản chất rốt ráo của hiện thực, có hai thời quan trọng được phân định: Một là thời tọa thiền, thời gian quý vị giữ tâm không loạn động và hai là thời xả thiền, thời gian quý vị quay về đời sống hiện thực. Vì thế ở đây, hai dòng thơ này liên đới trực tiếp với cách người tu kết nối với thế giới ngoài kia trong thời xả thiền. Đó là lý do vì sao đoạn thơ đề cập đến thực tại như huyễn, bởi vì đây là phương cách mà quý vị phải cảm nhận sự vật khi kết thúc thời thiền.

Theo suy luận của tôi, hai câu thơ này đưa ra một điểm hết sức trọng yếu, vì đôi khi người ta cứ nghĩ trong thời thiền thì điều quan trọng nhất là duy trì  sự nhất tâm. Họ ít quan tâm để ý đến việc làm sao kinh nghiệm này có thể áp dụng trong những lúc xả thiền. Tôi lại cho rằng thời gian xả thiền rất quan trọng. Toàn bộ cốt yếu của thiền quán về bản chất rốt ráo của hiện thực là để đảm bảo quý vị không bị cảnh hiện dối gạt và nhận thức sự khác biệt giữa cách mà sự vật trình hiện và thực tướng của chúng. Phật giáo luận giải rằng cảnh hiện thường là huyễn. Với sự lĩnh hội sâu sắc hơn về hiện thực, quý vị có thể vượt qua cảnh hiện và nhìn nhận vạn vật theo cách nhìn chính xác, hiệu quả và thực tế hơn.

Tôi thường đưa ra ví dụ về cách chúng ta liên hệ với người hàng xóm. Hãy tưởng tượng quý vị đang sống trong một khu vực nào đó ở một thành phố mà quý vị gần như không thể giao tiếp gì được với hàng xóm của mình, tuy thế nếu quý vị có thể giao lưu với họ đượcthì vẫn tốt hơn là phớt lờ họ đi. Thực hiện điều này một cách khôn ngoan sẽ phụ thuộc vào quý vị hiểu tính cách của người hàng xóm đến cỡ nào. Giả dụ, nếu người hàng xóm bên cạnh nhà rất tháo vát thì giao tiếp và thân thiện với anh ta sẽ mang lại lợi ích cho quý vị.  Đồng thời, khi tìm hiểu kỹ lưỡng, quý vị cũng nhận thấy người hàng xóm này có bản chất khá xảo trá thì sự hiểu đó trở nên rất quý giá nếu quý vị vừa duy trì được quan hệ thân thiện mà cũng vừa cảnh giác để không bị lợi dụng. Ngoài ra, một khi quý vị có tri kiến sâu xa về bản chất của hiện thực thì trong thời xả thiền, khi sống trong thế giới thực tại, quý vị sẽ liên hệ với con người và sự vật một cách đúng đắn và thực tế hơn.

TÁM THI KỆ CHUYỂN TÂM(1)
Tác giả: Langri Thangpa

Ý nguyện thành tựu lợi tối thắng
Với con, tất cả loài hữu tình
Còn hơn cả Bảo Châu Như Ý
Nguyện thường luôn giữ gìn lòng ái trọng.

Khi kết thân với bất kỳ ai
Xem chính con thấp hơn tất cả
Tận đáy lòng xin tôn kính người
Nguyện hành trì tôn kính thương yêu.

Quán tâm mình trong mọi hành xử
Vọng tưởng, phiền não vừa dấy khởi
Gây nguy hại cho mình và người
Nguyện tìm cách trừ diệt lập tức.

Khi thấy chúng sinh bẩm tính ác
Bị tội khổ áp bức khốc liệt,
Như gặp được kho báu khó tìm
Con nguyện đem lòng yêu quý họ.

Có chúng sinh do tâm ghen ghét
Phi lý chửi mắng, phỉ báng con
Xin nhận hết phần thua về mình.
Nguyện dâng tặng chúng sinh phần thắng.

Đối với người con từng trợ giúp
Hoặc người con đặt nhiều kỳ vọng
Bỗng dưng vô cớ hãm hại con,

Nguyện xem họ như bạn lành Tôn Sư.

Tóm lại dù trực tiếp hay gián tiếp
Dâng mọi lợi lạc lên mẫu thân
Những tổn hại khổ đau của Mẹ
Nguyện bí mật nhận hết về mình.

Tất cả nguyện trên cùng tám pháp
Không bị vọng tưởng làm ô nhiễm.
Tâm biết các pháp như huyễn hóa
Nguyện giải thoát ràng buộc chấp trước.
_______________________________________________________

(1): Việt dịch theo bản dịch từ Tạng ngữ của Nhật Hạnh – Tenzin Yangchen

Chân Như  chuyển Việt ngữ

Nhớ nghĩ về vô thường và chết


Lama Zopa
Tu viện Kopan, Nepan.
Chân Như chuyển Việt ngữ.

Nếu không liễu tri được những khiếm khuyết của việc lãng quên vô thường và cái chết, nếu không hiểu được lợi ích của việc này thì chúng ta sẽ không bao giờ thấy hết tầm hệ trọng của thiền quán về chết và vô thường. Nếu  không nhớ  đời là vô thường và chết là tất yếu thì có nghĩa là ta không nhớ Pháp, và ngay cả nếu có nhớ thì ta cũng sẽ không thực hành pháp. Nếu quên rằng thời điểm của cái chết là bất định thì khi thực hành pháp, nó sẽ không trở thành Pháp và nếu không nhớ đến cái chết và sự vô thường của đời sống, chúng ta sẽ tạo tác tà hạnh. Bằng cách nào vậy? Chuyện sẽ đến là ta không phòng vệ mình tránh khỏi những vọng  tưởng.
Khi theo đuổi vọng tưởng, ta tạo tác biết bao nghiệp bất tịnh và nhiều hành động thiếu đạo đức. Một gã ăn trộm của người khác và lấy đi đồ đạc thì gọi là kẻ cắp. Tương tự, khi chạy theo những dục vọng, quý vịsinh ra tà hạnh. Quý vị trở thành kẻ thù của chính mình thay vì tự giáo hóa bản thân. Quý vị tạo ra căn nguyên của khổ đau tự chuốc lấy và trở thành kẻ tạo tác phiền não cho chính mình. Người ta trở thành kẻ thù của chính mình như vậy đó.
Nếu phòng vệ bản thân chống lại những vọng tưởng bằng cách luôn nhớ nghĩ về vô thường và chết, quý vị sẽ trở thành kim chỉ nam cho chính mình và tự giúp đỡ chính mình. Chúng ta thành kim chỉ nam vì giữ mình không đuổi theo vọng tưởng. Nếu kinh nghiệm những khổ đau phiền não do chạy theo những vọng tưởng, quý vị sẽ cảm thấy vô cùng u uất khi kề cận cửa tử. Phải rời bỏ thân xác mà không có chọn lựa và kinh nghiệm sự hãi hùng trầm uất khốc liệt trong tâm trí. Nếu nhớ đến vô thường và cái chết, chúng ta sẽ không tái sinh trong các cõi thấp mà sẽ có một tái sinh từ sự chuyển kiếp đầy hỷ lạc và trải nghiệm hạnh phúc trong các kiếp sống kế tiếp. Qua thực hành con đường chuyển hóa từng bước của các chúng sinh cõi thấp, bao gồm thiền định về vô thường và chết, về nghiệp cũng như quy y Tam Bảo, những điều này sẽ mang ý nghĩa lớn lao. Ta sẽ chứng đắc niết bàn khi theo đuổi con đường tâm linh này và thành tựu quả giác ngộ khi tu tập trên đường tu Đại thừa, điều này cực kỳ diệu dụng.
Thiền quán về kiếp người vô thường và cái chết tất yếu là một pháp hành cực kỳ mạnh mẽ nhằm triệt phá những vọng tưởng của sân hận và kiêu mạn. Nếu muốn diệt trừ kiêu mạn, giận dữ, bám luyến và nhiều phiền não tiêu cực khác ngay tức thời thì phương tiện mạnh mẽ nhất chính là pháp thiền này. Nếu muốn buông thư  và tràn đầy hỷ lạc, quý vị nên nhớ nghĩ về vô thường của cuộc đời và về cái chết. Thiền định về vô thường và cái chết có thể mãnh liệt đến mức nó phá hủy vọng tưởng như một trái bom nguyên tử. Nó nhanh chóng tiêu diệt toàn thể thành phố, ngay lập tức và bạo liệt trong một phút – mọi vật chỉ còn là những mảnh vụn và ngay cả một trái núi vững vàng cũng đổ nhào hoàn toàn. Thiền định về vô thường và chết là một phương pháp mạnh mẽ để điều phục các vọng tưởng.

Ở thời điểm đầu trong thực hành Pháp, thiền định về đời sống vô thường và cái chết tất yếu là cực kỳ trọng yếu bởi vì nó khiến cho pháp hành của quý vị trở nên thuần tịnh. Quý vị có thể hoàn tất sự thực hành giáo pháp và thành tựu chứng ngộ. Vì thế, không chỉ bước khởi đầu trong pháp hành là quan trọng mà sự liên tục và hoàn mãn nó cũng quan trọng. Nhớ nghĩ về vô thường và cái chết là cực kỳ hệ trọng không chỉ ở bước khởi đầu của pháp hành mà còn ở cả những bước ta tiếp tục và hoàn mãn sự thực hành cho đến khi đạt giác ngộ. Thực hành thiền định về chết và vô thường, ta ra đi trong hỷ lạc ngập tràn. 

Thiền Hành (Walking Meditation)

99% kinh nghiệm về thiền tập của tôi là thiền tọa (ngồi thiền), lưng thẳng như mũi tên, trong tư thế 7 điểm của đức Phật Tì Lô Giá Na và...