Lama Zopa Rinpoche,
Chân Như chuyển Việt ngữ
Chân Như chuyển Việt ngữ
Không làm điều ác,
Siêng làm điều lành
Thanh tịnh hóa tâm
Đây chính là lời Phật dạy.
Siêng làm điều lành
Thanh tịnh hóa tâm
Đây chính là lời Phật dạy.
Kirti Tsenshab Rinpoche, vị Thầy vô cùng từ bi tôn quý, từng nói rằng giáo lý Tiểu
thừa về Tứ Thánh Đế chính là nền tảng, là giáo pháp cơ bản của Đức Phật. Khổ hiện hữu bởi vì có những nguyên nhân rõ
ràng của khổ, của nghiệp lực và vọng tưởng. Nếu như không có nhân khổ thì khổ đau
đâu có hiện hữu.
Rất nhiều thiên tai hoành hành ở Mỹ. Trong khi nước
Mỹ giao chiến với những nước khác thì cùng lúc nội tại của nước Mỹ cũng có
nhiều hiểm họa đang diễn ra. Đối với những người không biết về giáo pháp, không
hiểu luật nhân quả, không chấp nhận tái sinh và dòng tương tục của tâm thức –
tâm thức tiếp diễn từ những kiếp trong quá khứ sang kiếp hiện tiền và kiếp vị
lai - (và vì thế không tin luân hồi), những người này gọi động đất, hỏa hoạn,
bão lũ, sóng thần v.v… là “thảm họa thiên nhiên” bởi vì họ không biết tại sao
những chuyện này lại xảy ra, họ không hiểu nguyên nhân.
Những thảm họa dường như như vô căn cứ song lại hoàn
toàn tùy vào trình độ nhận thức của quý
vị. Cũng giống như một người có thể bị coi là điên hay không điên tùy thuộc vào
người khác đánh giá y như thế nào, theo quan điểm của chánh Pháp hay theo quan
điểm thế tục. Quan điểm của chánh Pháp vốn dĩ sâu xa hơn nhiều.
Lấy một ví dụ, từ lăng kính vạn pháp hiện hữu thường
hằng, quan niệm chấp thường quả quyết một trăm phần trăm, không nghi ngờ, là
mọi thứ đều thực có như chúng đang trình hiện. Sinh tử luân hồi, niết bàn, hạnh
phúc hay khổ đau, mọi thứ đều chắc có. Theo cách nhìn thế tục, quan điểm này
không sai. Song theo lăng kính của một bậc hành giả đã chứng ngộ tính không,
điều này hoàn toàn sai lầm. Tính không trong Tạng ngữ gọi là Tong-pa-nyi.
Tong-pa nghĩa là “tính không” và nyi nghĩa là “chỉ”, cụm từ này cắt đứt khái
niệm rỗng không theo nghĩa thông thường, tức là sự rỗng không hàm ý trống không
như cái ly trống rỗng, không chứa trà, cà phê hay sinh tố sữa bên trong, hay
của cái bao tử trống không có thức ăn. Nghĩa rỗng không này là nghĩa thông
thường, không có gì phải bàn luận ở đây cả. Tính rỗng không mà chúng ta đang đề
cập ở đây là Tong-pa-nyi trong Tạng ngữ, thầy không chắc âm nyi có phải là một
chữ trong tiếng Sankrit không. Tuy vậy, trong tiếng Tạng, chữ nyi trong
tong-pa-nyi chặt đứt mọi trống không mang nghĩa thông thường.. .
Loại rỗng không đó là gì? Đó là loại tính không hàm
chứa sự vắng mặt của một cái “tôi”tồn tại
chắc thật vốn chưa từng bao giờ hiện hữu từ vô thủy sinh tử, chứ không phải
sự vắng mặt của một “cái tôi”. Cái “tôi” tồn
tại chắc thật chưa từng bao giờ hiện hữu và sẽ không bao giờ hiện hữu trong
hiện thực, tuy nhiên cái tâm mê mờ của chúng ta lại chắc tin nó thực có. Chính
vọng chấp này, vô minh này là cội rễ của sinh tử luân hồi.
Denma Locho Rinpoche và Pabongka Dechen Rinpoche
cũng đã từng nhắc về điều này. Trong tác phẩm Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận - Lamrim
Chenmo, sinh tử luân hồi được định nghĩa là “một
phần của dòng tương tục của các uẩn cấu uế do nghiệp và vọng tưởng sinh ra.”
Tại sao bộ luận này lại nói là “một phần”? Bởi vì luân hồi sinh tử không bao gồm
những vị đại hành giả đã chứng đắc con đường tu tập (ND: còn gọi là “tu học đạo”),
giai đoạn thứ tư trong trình tự năm giai đoạn tu bao gồm: Tư lương đạo, gia
hành đạo, kiến đạo, tu học đạo và vô học đạo. Các uẩn thân và tâm của những vị hành
giả này không còn quay lại sinh tử vì họ đã chứng ngộ sự tịch diệt, gột sạch
những mầm mống của vọng tưởng và nghiệp lực, vì vậy không còn hiện hữu dòng
tương tục (của tâm thức). Họ không còn quay lại luân hồi dưới tác động của nghiệp và vọng
tưởng nữa. Điều này diễn ra khi giai đoạn tu học đạo đã thành tựu, đó là lý do vì
sao Tổ Song Khapa nói rằng sinh tử luân hồi là một phần của những hợp uẩn do
nghiệp và vọng tưởng dẫn dắt. Khi các uẩn còn chịu tác động của nghiệp và vọng
tưởng thì sẽ có sinh tử luân hồi, nhưng khi nghiệp và vọng tưởng ngưng dứt thì
không còn lăn trôi trong sinh tử nữa. Do vậy, những trường hợp của các đại hành
giả được loại trừ. Cả thầy Denma Locho Rinpoche và thầy Pabongka Dechen
Rinpoche đều đề cập như vậy.
Nhìn chung, hạng phàm phu chúng ta sẽ phải đi tái
sinh vì dòng tương tục của những hợp uẩn cấu uế do nghiệp và vọng tưởng dẫn
dắt. Đó là sinh tử luân hồi. Vòng tái sinh này là một định nghĩa ngặt nghèo của
luân hồi. Những hợp uẩn này là bản chất của khổ đau vốn bị chướng ngại, nghiệp lực
và vọng tưởng chi phối dẫn dắt do nhận thức sai lầm, Tạng ngữ gọi là
nyon-mong-pa, cái khiến tâm ta bị mê mờ che chướng. Chức năng vận hành của nó
là che chướng tâm. Thay vì khai mở tâm, nó che mờ tâm, tựa như một căn phòng
tối bị đóng chặt không có ánh sáng bên ngoài rọi vào.
Điều thầy cố gắng giải thích ở đây là trong cái thấy
của phàm phu, thậm chí ngay cả trong đầu óc khoa học của người Tây phương, đời
người phải có bám luyến, phải có sân hận, có vô minh, con người ta là phải vậy.
Làm sao có thể có một đời sống không bám luyến? Không thể có! Họ chưa từng kinh
nghiệm một đời sống thiếu vắng sự bám luyến, cái bám luyến không phải để thức
tỉnh tâm thức con người mà để che chướng. Thay vì mang đến giải thoát cho tâm,
bám luyến cứ dính chặt vào phúc lạc và sự thoải mái sung sướng của đời này. Lời
dạy của Đại sư Long Thọ là vậy.
Vì bám luyến như thế, chấp thật như thế, dính mắc
như thế, làm sao chúng ta có hạnh phúc chân thực! Dễ thấy rằng, còn bám luyến
mạnh mẽ thì không thể thực sự vui hưởng hạnh phúc và bám luyến càng kiên cố, hạnh
phúc càng ít ỏi. Nếu kiểm tra tâm mình, quý vị sẽ thấy chẳng hề có chút an vui.
Không có chứng ngộ trong tâm cũng không có an lạc nội tại trong đời. Tâm chấp
bám càng kiên cố bao nhiêu thì càng khổ sở phiền não bấy nhiêu. Rồi khi không
có được cái mình mong cầu, khi đối tượng bám luyến gặp phải trắc trở, chẳng hạn
như một người thân qua đời, thật quá chừng đau khổ sầu não.
Chẳng hạn như có một cặp vợ chồng chung sống bao năm
nay, rồi người chồng qua đời. Đối với người vợ, coi như chẳng còn nơi nương dựa
nữa, chẳng còn ai trên đời này nữa, chỉ có người chồng này mà thôi. Từ khi thế
gian này tiến hóa, chẳng có một ai trường sinh bất tử cả. Người có trí ai cũng
hiểu như vậy. Nếu quý vị hỏi người điên thì là chuyện khác nhưng nếu hỏi người
tỉnh táo thì đều biết người ta chẳng ai sống mãi, rằng chẳng ai sống hoài không
chết, dù ở Tây Tạng, ở châu Mỹ hay châu Phi, chẳng ở đâu cả. Nhưng khi người chồng
qua đời đột ngột hay chết dần dần từng khoảnh khắc thì đối với người vợ sẽ
chẳng còn ai nữa, bà ấy chẳng còn ai để nương nhờ nữa. Và dù lão niên hay chưa,
bà cũng có thể qua đời vài ba tháng sau vì không thể sống thọ sau cái chết của
người chồng. Thầy nghe chuyện này xảy ra ở nước Mỹ, không phải tất cả trường
hợp đều thế nhưng nhìn chung là như vậy.
Một đơn cử khác là khi một đứa trẻ được cha mẹ cưng
quý yêu thương qua đời. Có một sự bám luyến mạnh mẽ vào “con của tôi”, nhưng
rồi đứa trẻ ra đi. Bản chất của các sự vật hiện tượng là vậy. Thứ gì có sinh ra
thì phải chết đi, kể cả cỏ cây và đương nhiên con người ta cũng thế. Chẳng thứ
gì tồn tại vĩnh viễn. Hội ngộ rồi chia ly. Trong gia đình cũng giống như vậy.
Sự liên đới về nghiệp trong gia đình thật là thú vị.
Khi nghiệp trổ quả đời này dẫn dắt ta gặp lại người nọ người kia nay lại là
thân bằng khuyến thuộc, trong khi mối quan hệ của ta với họ có thể hết sức khác
biệt trong các kiếp trước đó. Người chồng đời trước của quý vị có thể thành con
của quý vị bây giờ và đôi khi đứa trẻ kia trong những đời quá khứ có thể là vợ
hoặc là kẻ thù của quý vị. Đứa trẻ cũng có thể trở thành người mẹ, quý vị lại
thành người cha, người mẹ hoặc là kẻ thù. Có rất nhiều khả năng kết hợp như
vậy.
Trong đời này, gia đình quý vị - cha mẹ, anh chị em,
chỉ ở trong cương vị của họ trong một quãng thời gian ngắn ngủi, đây chỉ là
những mối quan hệ ngắn ngủi. Trong môt thời đoạn vài chục năm thì mọi thứ sẽ
đổi thay trở lại và ở kiếp sống vị lai kế tiếp, người cha có thể thành người
vợ, con gái lại thành người chồng, bằng hữu chuyển thành kẻ thù. Cứ đổi thay
như thế từ kiếp này sang kiếp khác. Không phải chỉ một lần, quý vị đừng nghĩ
như thế, mà từ vô thủy sinh tử, trong quan hệ của chúng ta với tất cả các chúng
sinh khác là vậy. Mọi người trên thế gian này, từng người một, toàn bộ nhân
loại, các loài động vật, ngạ quỷ, súc sinh, chư thiên, A tu la v.v… tất cả
chúng ta đều có mối liên hệ với tất cả mọi loài chúng sinh từ vô thủy sinh tử
luân hồi.
Chính chúng ta đã từng là kẻ thù, là chồng, là vợ,
là con cái của họ, hết thảy các mối liên hệ từ vô thủy sinh tử với mọi loài
chúng sinh. Như giáo pháp đã từng đề cập, chúng ta đã từng là bạn, thù, vợ
chồng, con cái vô lượng vô số lần và chừng nào còn trong sinh tử, quý vị còn
tiếp tục thành bạn, thù, chồng vợ, con cái của họ cũng như họ sẽ thành bạn,
thù, chồng vợ, con cái, cô dì chú bác của quý vị. Chúng ta diễn những vai khác
nhau trong những kiếp sống khác nhau.
Vì vậy, nếu có một người thân trong gia đình qua đời
mà quý vị nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ gặp lại họ là hoàn toàn sai lầm. Lo
lắng cũng hoàn toàn vô ích, không giúp được gì cả. Nếu có một hướng để giúp đỡ
người đó thì hãy giúp họ thoát đọa khổ đau của những cõi thấp, song giúp họ giải
thoát khỏi khổ sinh tử lại là một lẽ khác. Đây không phải là dị đoan mê tín,
không chỉ là tín tâm mà là một pháp hành chân thực và có lý trí. Nếu có phương
cách nào đó để giúp đỡ thì đương nhiên chúng ta phải giúp, nhưng nếu chỉ nơm
nớp lo lắng mình không được gặp lại họ nữa thì thật hoài công vô ích. Điều này
chỉ khiến quý vị thêm trầm uất. Rồi từ lo lắng trầm uất lại sinh tâm phiền não,
gây thêm bệnh ung thư và các bệnh tật khác nữa cho tinh thần và thể xác, vậy là
quý vị không làm gì tự lợi hay lợi tha cả.
Trong
tác phẩm Nhập Bồ Đề Hành Luận, ngài Tịch Thiên đã dạy rằng:
Sự việc nếu vẫn còn
phương cứu chữa,
Chẳng lý do gì tâm lại không vui.
Còn nếu thật sự vô phương cứu chữa,
Thử hỏi không vui liệu có ích gì? (1)
Chẳng lý do gì tâm lại không vui.
Còn nếu thật sự vô phương cứu chữa,
Thử hỏi không vui liệu có ích gì? (1)
Thử hỏi mong muốn ngôi nhà mình ở dát kim cương hay vàng
ngọc đá quý để làm gì? Sao phải lo lắng thái quá về những việc không thể xảy ra.
Thật là vô nghĩa. Biết lo lắng thật vô nghĩa, biết nó chẳng ích lợi gì thì quý
vị nên bỏ lo lắng đi. Rồi bình yên sẽ đến. Điều thầy muốn nói là lo lắng chẳng
có lợi lạc gì. Chừng nào còn trôi lăn trong sinh tử, chừng nào còn chưa thoát
khỏi luân hồi, chúng ta sẽ còn tiếp tục liên hệ với mọi chúng sinh. Tất cả
những chúng sinh đã từng là cha mẹ, anh em hay vợ chồng của chúng ta. Họ là
những đứa con đã lìa đời và những người đã ra đi sẽ có những mối liên hệ khác
nhau với chúng ta trong những kiếp khác. Thân xác có thể khác đi nhưng dòng
tương tục của tâm thức sẽ không thay đổi. Nếu quý vị chỉ mong chờ gặp thân xác
mà không nghĩ đến tâm thức thì quý vị không bao giờ gặp lại người đó trong thân
xác cũ, song giữa thân xác và tâm thức thì tâm thức sẽ nương trú ở trong một
thân xác mới và chúng ta sẽ còn gặp lại nhau hoài hoài cho đến khi vượt thoát sinh
tử.
(1): Theo bản dịch
Nhập Bồ Đề Hành Luận do Hồng Như chuyển Việt ngữ.