Xin cảm ơn Sư huynh Trịnh Thanh Cường, người đã chỉ dạy cho tôi những kiến thức Phật giáo uyên thâm trước và trong chuyến hành hương đến Tây Tạng. Xin cảm ơn chị Huỳnh Hồng Hải đã tổ chức chuyến đi thành công viên mãn cho chúng tôi . Xin cảm ơn các anh chị em trong đoàn hành hương, những người đã trở thành gia đình tâm linh của tôi sau chuyến hành cước Ngân Sơn!
Đường tới Lhasa
“Không một ai đặt chân vào Tây Tạng mà không chịu ảnh hưởng của nó, và không ai có thể chui rúc vào đời sống chật hẹp một khi đã nhìn thấy sự bao la hùng vĩ của rặng Tuyết Sơn…”
Lama Govinda Anagarika.
Chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Gunggar, Lhasa vào một buổi sáng tháng Năm trong veo, mát rượi. Tây Tạng đây rồi ư? Xứ Tuyết mênh mang huyền ảo trong giấc mơ bấy lâu nay của tôi đây rồi ư? Phải mất một vài phút định thần tôi mới thực sự tin rằng bàn chân mình đang đứng trên Xứ Tuyết! Phải chăng các Chư Phật và chư Bồ Tát đã đọc được giấc mơ hàng đêm của kẻ hành hương nhỏ bé và trợ duyên cho tôi sớm đặt chân đến mảnh đất thiêng liêng đầy huyền bí này.
Tôi lặng lẽ ngắm nhìn bầu trời trong và xanh, những con đường ngút tầm mắt uốn lượn dọc theo dãy núi Chuwaru hùng vĩ ôm trọn thị trấn Gunggar. Thật bất ngờ về chất lượng tuyệt hảo của đường xá nơi đây, chiếc xe buýt của chúng tôi chạy bon bon trên đường, 2 bên chập chùng núi đồi và thảo nguyên lấp lóa dưới ánh nắng trong suốt của mặt trời xứ tuyết. Chạnh lòng nghĩ đến con đường chông gai mà Lạt ma Govinda Anagarika phải vượt qua cách đây hơn 65 năm khi tìm đường vào Tây Tạng tầm sư cầu đạo và đảnh lễ Ngân Sơn. Ông đã phải trải qua muôn vàn khó khăn thách thức về đường xá, thời tiết, có những lúc tưởng đã gần kề cái chết. Tác phẩm “Đường Mây Qua Xứ Tuyết” của ông đã trở thành cảm hứng mãnh liệt cho tôi và cũng là một trong những lý do thôi thúc tôi đến Tây Tạng dù có thể phải trả giá bằng những cơn đau đầu dữ dội, những ngón tay, chân thâm tím vì thiếu dưỡng khí, chảy máu cam liên tục hay tệ hơn thế nữa…
Thị trấn Gunggar nằm ngay trong lưu vực sông Yarlung Tsangpo, một trong bốn con sông thiêng bắt nguồn từ rặng Himalaya hùng vĩ và được mệnh danh là “Everest của những con sông” vì chiều dài và độ cao đáng nể của nó. Từ sân bay về đến thủ đô Lhasa, chúng tôi sẽ đi ngang qua con sông này. Tôi cảm thấy nghẹt thở trước vẻ đẹp lộng lẫy của dãy Chuwaru và sông Yarlung Tsangpo, núi và sông hòa quyện vào nhau phản chiếu bầu trời xanh thăm thẳm lác đác những đám mây trôi bồng bềnh. Nắng vàng ươm trải dài trên những sườn núi phía Đông dọc theo con đường tôi đi qua. Chưa thấy các đỉnh núi phủ tuyết, có lẽ vì bây giờ đang là mùa xuân và tuyết cũng đã tan dần ở độ cao 3,600m? Lúc đó, tôi chưa hay biết rằng những ngày tới đây, mình sẽ còn nghẹt thở nhiều lần nữa trên đoạn đường hành hương dài hơn 1,300 km từ Lhasa đến núi thiêng Ngân Sơn Kailash. Quả thật, chỉ khi đặt chân đến nơi đây, tôi mới hiểu được sự giới hạn của ngôn ngữ khi phải diễn đạt vẻ đẹp không bút nào tả xiết của thiên nhiên hùng vĩ và hoang sơ nơi Xứ Tuyết.
|
Vạn dặm sơn thủy xứ Tạng |
Chúng tôi lưu lại thủ đô Lhasa 2 ngày để chuẩn bị sức khỏe cho hành trình dài sắp tới – Hành trình hướng về Ngân Sơn Kailash, mục đích lớn nhất của chuyến hành hương lần này!. Các cuộc viếng thăm những cổ viện nổi tiếng ở Lhasa như chùa JoKhang, tu viện Sera, tu viện Drepung và nhất là Cung Potala để lại trong tôi nhiều cảm khái nội tại, buồn vui lẫn lộn. Vui vì sau nhiều năm mong nguyện, tôi và các anh chị em đạo hữu đã đủ thuận duyên để bước chân chiêm bái một số trong những tu viện lừng danh nhất của Tây Tạng, những nơi lưu giữ nhiều pho tượng Phật nổi tiếng cũng như những điển tích Phật giáo Mật tông lâu đời và thiêng liêng nhất, những nơi lưu giữ kinh sách giáo pháp Mật tông từ nhiều thế kỷ trước mà khi nhìn thấy, tôi chỉ biết quỳ sụp xuống trong sự ngưỡng kính khôn tả xiết. Nước mắt tôi chảy vòng quanh trong nỗi buồn xa xăm khi biết rằng những tu viện lẫy lừng này trong quá khứ đã từng đào tạo hàng trăm ngàn tăng sĩ qua nhiều thế kỷ, nay chỉ còn vài trăm vị tăng. Tôi bỗng nhớ da diết nụ cười hiền hòa của Đức Dalai Lama XIV khi Ngài giảng Pháp ở Dharamsala, Ấn Độ rồi cứ hình dung Ngài đang ngồi ở đâu đó, trong cung Potala, trên chiếc ghế gỗ giản dị, người hơi lắc qua lắc lại trong tư thế quen thuộc của Ngài, mỉm cười vẫy chào chúng tôi. Mỗi bước chân đi trong cung điện Potala, từng ngõ ngách, từng căn phòng, tôi lại tưởng tượng các tu sĩ và lạt ma Tây Tạng trong những chiếc tăng bào màu đỏ thẫm đang lướt qua trước mắt, uy nghi, đầy oai lực. Giá như tôi có thể nhìn thấy họ bằng xương bằng thịt! Giá như tôi có thể diện kiến Đức Dalai Lama XIV trong chính ngôi nhà của Ngài! Mọi thứ đều y nguyên, phòng đọc sách, phòng tiếp khách, nơi thiền định của của Ngài… mọi thứ đều có ở đó, nguyên vẹn nhưng cô tịch vì vắng bóng chủ nhân từ rất lâu rồi!
Từ Lhasa đến hồ thiêng Manasarovar
Chia tay Lhasa, tôi ngoái đầu nhìn lại Cung điện Potala một lần nữa, thẫn thờ! Potala đứng đó, hùng vĩ, oai nghiêm và chẳng liên quan nhiều đến phần còn lại của Lhasa, thành phố đã bị Hán hóa với quá nhiều nhà cửa bê tông cốt thép, nơi các cửa hàng, quán xá đều chưng bảng hiệu chữ Hán to tướng với chữ Tạng khép nép bé nhỏ nằm ở bên dưới!
Con đường từ Lhasa đến Ngân sơn chia làm 3 chặng. Như vậy có nghĩa là chúng tôi sẽ mất 3 ngày di chuyển trên đường với chiều dài tổng cộng khoảng 1,330km ở độ cao tối thiểu là 3,900m. Tuy nhiên đường đến Ngân Sơn thơ mộng như lạc vào cõi chư thiên nên hầu như chẳng ai quan ngại lắm về chiều dài của chặng đường. Mọi người đều hướng về núi thiêng Ngân Sơn đang vẫy gọi.
|
Sông băng |
Chặng đầu tiên là Lhasa – Shigatse, 270km. Mặc dù Shigatse chỉ cao hơn Lhasa 300m nhưng để đến được thành phố này, có những lúc chúng tôi phải vượt qua những ngọn đèo cao gần 5,000m. Phong cảnh trên chặng đường này quả là tráng lệ đến nghẹt thở. Những con đường bê tông uốn chạy quấn quít xung quanh các ngọn núi phủ băng tuyết hùng vĩ... Hàng trăm cây số, chỉ có núi tiếp núi, mây tiếp mây. Chiếc xe của chúng tôi trở nên bé nhỏ như xe đồ chơi trong Xứ Tuyết. Ở những chốn như thế này, bỗng thấy con người quả là nhỏ bé li ti, kiếp người thật là ngắn ngủi và chật hẹp! Và kia rồi, những ngọn núi phủ băng tuyết vĩnh cửu đã hiện ra đằng xa, trắng lóa dưới ánh sáng mặt trời, trắng đến mức máy ảnh không thể phân biệt được đâu là tuyết và đâu là màu mây. Phía trên bầu trời, tuyết và mây trắng quyện lẫn với nhau trên các núi băng vĩnh cửu, phía dưới con đường, các dòng sông băng trắng xóa còn chưa kịp tan tạo thành một không gian huyễn ảo. Hơn lúc nào hết, tôi bắt đầu hiểu vì sao Lạt ma Govinda gọi Tây Tạng là “những con đường mây trắng”, vì sao những dòng hồi ký ông viết ra lại quá đẹp và nên thơ khiến lòng tôi cứ ngẩn ngơ thẫn thờ! Phải, giờ đây chính tôi đang đi trên những con đường như thế, chính tôi được trải nghiệm những cảm giác như ông diễn tả. Biết đâu những con đường tôi đang đi đã từng in dấu chân người tu sĩ mộ đạo Govinda Anagarika?
|
Cành hoa dại bên đường |
Hồ Yamdrok là một hồ thiêng không thể bỏ qua trên hành trình đến Shigatse. Tôi có cảm giác Yamdrok chính là tiền đề của hồ thiêng Manasarovar mà 2 ngày sau tôi được tận mắt diện kiến bởi vì nước hồ quá trong xanh và phẳng lặng. Yamdrok như một dải lụa xanh thẳm, mịn màng uốn mình một cách khẽ khàng và dịu dàng qua các triền núi uy nghiêm. Khi chúng tôi đến, tuyết trên các ngọn núi đang tan, không khí lạnh buốt tê cóng nhưng trong lành vô cùng. Chúng tôi đang ở độ cao khá ấn tượng: 4,677m so với mặt nước biển. Tôi cảm thấy khá tỉnh giác mặc dù độ cao này có thể làm nhiều người không còn cất bước nổi. Trong không gian bao la và tĩnh lặng này, trí tưởng tượng của tôi lại bay bổng. Tôi bỗng nhớ đến bài thơ “Tuyết trên Sông” của Liễu Tông Nguyên, một thi tăng đời Trung Đường:
“Ngàn non bặt cánh chim bay
Lối mòn vạn nẻo quạnh hiu bóng người
Ngư ông nón lá tả tơi
Tuyết rơi sông lạnh ngồi câu một mình”
Phong cảnh hồ Yamdrok cũng thơ mộng như một bài thơ. Giữa không gian bao la, trên bờ hồ lạnh giá cô tịch này, ước gì tôi nhìn thấy một vị ẩn tu đang lững thững xuống hồ ngồi câu và cảm khái một bài thơ thiền!
|
Hồ Yamdrok |
Cung đường từ Shigatse đi Saga và từ Saga đến thị trấn Darchen dưới chân núi thiêng Ngân Sơn cũng không kém phần thi vị. Tổng chiều dài của đoạn đường là gần 1,060km, độ cao trung bình khoảng hơn 4,000m. Khác với cung đường Lhasa - Shigatse với con đường đèo cao chót vót, ngoằn ngoèo, hiểm trở, nhiều khúc cua khuỷu tay rất gắt, cung đường Shigatse – Saga – Darchen hiền hòa hơn nhiều, đường cái quan bằng phẳng chạy xuyên giữa vô số hồ nước trong vắt, các thảo nguyên mênh mông bạt ngàn, xa ngút tầm mắt được bao bọc bởi những rặng núi trầm mặc, phủ tuyết trắng phau, trùng trùng điệp điệp tận chân trời. Tôi chiêm ngưỡng các đàn bò Yak ung dung gặm cỏ, dê, cừu hồn nhiên chạy lăng xăng trong một phong cảnh thiên nhiên hoang sơ và khuyến rũ đến lạ lùng.
Tại đây, tôi hoàn toàn hiểu được vì sao trong bút ký “Đường Xa Nắng Mới”, tác giả Nguyễn Tường Bách đã phải thốt lên rằng: “Đi trên con đường này, khách cứ ngoảnh qua ngoảnh lại để ngắm thác trên sườn núi, mắt mở lớn để thu nhận một vùng đất trời không thuộc về thế giới con người và tâm bồi hồi biết đây chỉ là quang cảnh tạm thời của đời mình.” Anh lái xe người Tạng thỉnh thoảng ngân nga vài bài hát Tạng cho chúng tôi nghe, rồi anh bật đài phát thanh ca nhạc tiếng Tạng, thỉnh thoảng anh nhún nhảy theo điệu nhạc làm chúng tôi bật cười vui lây. Chúng tôi à ơi hát theo anh dù chẳng hiểu một chữ Tạng nào! Trong khung cảnh thiên nhiên như thế, những giai điệu sinh động của người Tạng đã trở thành một phần không phai nhòa, mãi hằn in trong ký ức một kẻ hành hương!
|
Hồ thiêng Manasarovar - trong xanh đến bàng hoàng |
Điểm đến mà chúng tôi nôn nao chờ đợi nhất trước khi chiêm bái Ngân Sơn chính là hồ thiêng Manasarovar ở độ cao 4,556m. Hồ có diện tích khoảng hơn 400km vuông, chu vi khoảng 88km, chỗ sâu nhất khoảng 90m. Manasarovar là một trong những hồ có trữ lượng nước ngọt lớn nhất Tây Tạng. Tiếc là lần này chúng tôi không có đủ thời gian để thực hiện Kora quanh hồ và thăm viếng vô số các cổ viện lân cận. Trước khi đến Manasarovar, chúng tôi còn có dịp đến thăm hồ Rakshastal, được xem là hồ “chị em sinh đôi” với Manasarovar. Rakshastal còn được gọi là hồ quỷ hay hồ dạ xoa vì những âm khí và năng lượng xấu được tin là phát sinh từ nó. Mặc dù thế, phong cảnh xung quanh Rakshastal diễm lệ không thua kém gì Manasarovar. Tuyết trắng đóng băng bạt ngàn trên hồ và các đỉnh núi xung quanh, bầu trời màu xám nhạt, lạnh lẽo!…Đến Rakshastal, tôi có cảm giác như mình đang ở mùa đông âm u phương Bắc! Điều kỳ lạ nhất mà tôi chưa giải thích được là mặc dù Manasarovar và Rakshastal chỉ cách nhau một rẻo đất nhỏ và thông được với nhau qua kênh Ganga Chhu, nhưng nước hồ quỷ thì đóng băng trắng xóa còn nước hồ Manasarovar lại trong xanh đến bàng hoàng. Cùng một vị trí địa lý, một điều kiện thời tiết, vì sao có thể xảy ra hiện tượng lạ lùng này?
Đứng ở hồ thiêng Manasarovar, tôi đã thấy Ngân Sơn thấp thoáng hiện ra trong tầm mắt. Chì một ngày nữa thôi, chúng tôi sẽ đến gần Ngân Sơn hơn và sẽ có một chuyến hành cước đảnh lễ ngọn núi thiêng này!
|
Bình minh trên hồ Manasarovar |
Ngắm Manasarovar vào buổi bình minh và hoàng hôn là một may mắn lớn của đời người hành hương. Người ta tin rằng nước hồ Manasarovar linh thiêng có thể tẩy sạch và tiêu trừ mọi nghiệp lực tối tăm nếu các tín đồ hành hương đắm mình trong dòng nước trong xanh này. Nước hồ trong đến mức có thể nhìn thấy những chú cá nhỏ xíu bơi lội tung tăng và những viên sỏi bẹt nằm bên dưới! Khi bình mình xuất hiện, bầu trời ửng hồng đằng sau rặng núi tuyết trắng phau. Trên bờ hồ, nhiều tín đồ lặng lẽ ngồi thiền định hoặc đang âm thầm chuẩn bị cho một cuộc thanh tẩy nghiệp chướng trên dòng nước biếc. Rồi bầu trời sáng dần lên, trong xanh lạ lùng, từng đàn chim trời vỗ cánh bay lượn trên mặt hồ tĩnh lặng và lướt qua Tu viện Chiu Gompa trên núi cao, nơi được tin là Guru Padmasambhava (Liên Hoa Sinh) đã từng tu tập và thiền định phép tu Kim Cương Thừa với vị phối ngẫu của ngài là vị Không Hành Nữ Yeshe Tsogyel. Không gian linh thiêng của tu viện cũng như của hồ thiêng đã bao phủ lấy tôi, tiếp cho tôi thêm sức mạnh tâm linh để thực hiện chuyến hành cước của mình. Tôi ngước nhìn bình minh, bầu trời cao xanh rỗng lặng, sao lòng thanh thản khác lạ, thầm thì tôi nhẩm đọc lại một đoản khúc thơ của Thiền sư Hoàng Trí Chánh Giác (1091 -1157), một trong những đoạn yêu thích nhất của tôi:
“Giống như giấc mơ của một con sếu bay trong không gian trống rỗng
Giống như nước sáng, lặng của hồ thu
Những kiếp vô cùng tan trong khoảng không
Mỗi cái không phân biệt với cái khác.”
Chia tay nơi đây, biết bao giờ có dịp trở lại? Thầm mong nguyện rằng một ngày nào đó không xa, bàn chân lầm lũi âm thầm của kẻ hành hương sẽ quay lại nơi này, lặng lẽ bước đi quanh hồ thiêng bao la, đắm chìm trong cái rỗng lặng uyên nguyên của không gian và cảnh vật xung quanh, nghiền ngẫm cái vô thường của cuộc đời, cái huyễn của mọi pháp trên thế gian này! Tôi cúi nhặt 2 viên sỏi nhỏ trên bờ hồ Manasarovar mang về làm kỷ niệm, nhắc mình một dấu tích đáng ghi nhớ trong đời về chuyến hành hương đầy ý nghĩa này.
(Hết phần I)