Lòng Vị Tha


Một thiền sinh hỏi đạo sư: “Thưa thầy, con đau khổ vì người yêu ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại… Con phải làm sao để hết oán giận và thù ghét họ đây?”. Thầy đáp: “Con ngồi xuống tịnh tâm, hãy tha thứ hết cho họ.”
Vài hôm sau, người đệ tử trở lại và nói: “Con đã học cách tha thứ cho họ. Thật nhẹ lòng! Coi như xong!”. Thầy bảo: “Chưa xong! Con về tịnh tâm, mở hết lòng ra, yêu thương họ.”
Đệ tử gãi đầu: “Tha thứ thôi cũng quá khó khăn rôi, lại phải yêu thương họ thì… Thôi được, con sẽ cố gắng làm!”
Một thời gian sau, đệ tử quay lại vui vẻ khoe với thầy là đã làm được việc yêu thương những người đối xử tệ bạc với mình. Thầy gật đầu bảo: “Tốt, bây giờ con về tịnh tâm, hãy ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến bộ tâm linh như vậy.”
Một thời gian lâu sau đó, người đệ tử trở lại, hoan hỉ báo với thầy: “Con đã học yêu thương những người đối xử tệ với mình, và con cũng đã học cách ghi ơn họ đã cho con cơ hội học được lòng khoan dung độ lượng.!”
Thầy mỉm cười: “Vậy thì con về tịnh tâm lại nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ?”
Đọc và suy ngẫm câu chuyện, ta thấy rằng khi biết tha thứ cho những người đã gây đau khổ cho mình, ta khởi tâm từ bi. Trên bước đường tu tập, ta nên cảm ơn những người đã tạo ra nghịch duyên để chúng ta có cơ hội thực hành các hạnh ba la mật mà trong đó hạnh nhẫn nhục và tâm từ bi là nền tảng của việc tu. Nếu lúc nào ta cũng mong cầu tất cả mọi người phải yêu quý mình, phải gặp nhiều thuận duyên thì ngã mạn sẽ được nuôi dưỡng và rồi dần dà ta đánh mất cơ hội tiến bộ tâm linh.
Trong một đoạn chia sẻ về lòng vị tha với một nhóm sinh viên đến từ Đại Học Redlands, California, Hoa Kỳ năm 2011 (Sau này được ghi lại trong tác phẩm “Tấm Lòng Cao Cả” - The Heart is Noble), Đức Karmapa XVII đã nói thế này: “Tôi cho rằng nuôi dưỡng thói quen tự thừa nhận lỗi lầm và tự tha thứ cho bản thân cũng là một cách để chúng ta luyện tập tha thứ cho người khác. Trong những lỗi lầm mà người khác tạo ra, có thể có những lỗi lầm đã gây tổn thương hoặc thậm chí gây hại cho bạn. Bạn mong muốn những người đó không đối xử như thế với mình, sự khoan dung của bạn có thể giúp họ từ bỏ cách ứng xử không tốt để trở thành một con người mới. Điều này không có nghĩa là bạn chấp nhận hành vi quá khứ của họ mà có nghĩa là bạn mong giúp tạo ra một tương lai mà họ sẽ không bao giờ phải xử sự tiêu cực như thế nữa. Cũng giống như việc tự thừa nhận những sai quấy của bản thân giúp ta không xem các hành động lầm lỗi với bản thân là một, từ đó bạn có thể phân định sự khác nhau giữa hành vi sai lầm của một người và chính người đó.
Để tha thứ cho một người làm bạn bị tổn thương, hãy quán xét rằng người đó đã bị những cảm xúc mạnh mẽ sai xử. Những cảm xúc điên cuồng có thể khiến người ta hành động điên cuồng. Khi rơi vào vòng cương tỏa của những cảm xúc mãnh liệt như thế, người ta có thể thực hiện nhiều hành vi nguy hiểm – nguy hiểm cho người khác và cho chính mình. Khi nhận ra rằng những cảm xúc điên loạn đã sai xử người ta hành động như thế, bạn sẽ nhìn họ khác đi. Nếu nhìn rộng ra, bạn sẽ thấy rằng họ cũng chẳng được lợi lộc gì từ những hành vi đó và ở những lúc tỉnh táo hơn, họ sẽ không bao giờ hành động như thế…. Khi nhận ra rằng họ chỉ là nạn nhân của cảm xúc tiêu cực, bạn sẽ dành chỗ cho cảm thông và thương yêu tăng trưởng. Tình thương mà bạn dành cho họ trước khi họ làm bạn tổn thương sẽ được đánh thức trở lại. Sau cùng, mong cầu nhìn thấy người khác được giải thoát khỏi khổ đau chính họ tạo ra sẽ lớn hơn chấp nhặt việc họ đã đối xử với bạn tệ như thế nào.
Chuyển hướng từ việc chỉ quan tâm lợi ích của bản thân đến quan tâm thực lòng lợi lích của những người khác có thể giúp ta chuyển hóa các mối quan hệ, và điều đó sẽ chuyển hóa chính chúng ta. Ta có thể trở thành người luôn vì người khác, luôn chia sẻ gánh nặng với người khác. Đây là một sự chuyển hóa rất giản đơn trong một nhân sinh quan giúp chuyển hướng hoàn toàn các mối quan hệ của bạn. Tôi cho rằng nhân sinh quan đó sẽ khởi sinh nhiều mối quan hệ vô cùng tốt đẹp.”

Bút Ký: Ngân Sơn Kailash - Vạn Dặm Không Mây (Phần II)


Đường đến núi thiêng Kailash

Từ hồ Manasarovar chúng tôi tiếp tục khởi hành đi Darchen, thị trấn nằm dưới chân Ngân Sơn! Càng đến gần Kailash, trống ngực tôi càng đánh thình thịch, cảm giác này giống như xúc cảm của một đứa con xa nhà, sau rất nhiều  năm chờ đợi hồi hộp, nay được quay về thăm cha mẹ và người thân của mình...
Ngân Sơn hiện ra sau một bình nguyên bao la
Và kia rồi, chưa bao giờ tôi nhìn thấy Ngân Sơn rõ như thế! Ngọn núi từ bao đời bao kiếp đã gieo những xúc cảm tâm linh mãnh liệt và cảm hứng vô tận cho các tăng sĩ và tín đồ Phật giáo. Ngân Sơn hiện ra từ phía sau một bình nguyên bao la, phủ đầy tuyết trắng. Ngân Sơn đứng tách riêng độc lập, oai nghiêm và đầy quyền năng! Người Tạng tin rằng Ngân sơn chính là trung tâm của một đàn tràng Mạn Đà La tối linh!

Trong tác phẩm Đường Mây qua Xứ Tuyết, Lạt Ma Govinda cũng đã từng khẳng định: “Quyền năng của một ngọn núi là rất lớn và mãnh liệt” và rằng: “Muốn thấy được sự cao cả của ngọn núi, ta phải quan sát nó từ xa. Muốn hiểu nó, người ta phải đi xung quanh để rung động với nó. Muốn cảm thông nó, người ta phải sống với nó từ buổi rạng đông đến chiều tà, trong cơn mừa phùn cũng như khi trời nắng gắt, mùa đông cũng như mùa hè…”
Muốn biết rõ sự màu nhiệm của Ngân sơn, người ta phải nhìn  núi dưới con mắt của một tín đồ hành hương chứ không phải dưới cảm quan của một nhà thám hiểm hoặc của các công dân phượt! Sự chuẩn bị tâm linh là một điều vô cùng cần thiết trước khi quyết định đi vòng quanh ngọn núi này!
Ngồi trên xe, tôi chắp tay vọng lễ Ngân Sơn, âm thầm tự hỏi liệu tôi đã sẵn sàng đi hết một  Parikrama – “Vòng luân hồi”  52 km xung quanh Ngân Sơn? Độ cao lúc này là 4,600m và dưỡng khí quả là một vấn đề lớn! Lượng oxy trong không khí còn khoảng 60%. Dự cảm cho tôi biết có thể trong chuyền đi lần này tôi chỉ đi được ngày đầu, 18km mà thôi.!
Mặc dù đã từng chinh phục Fansipan, độ cao 3,143 trong một ngày mưa dầm, lạnh tái tê, trời xám xịt đầy sương, với rất nhiều đoạn leo trèo lên xuống khá vất vả, đã trekking ở khu vực Gornergrat, Matterhorn thuộc rặng Alps trong địa phận Thụy Sỹ, độ cao khoảng trên dưới 3,300m, trong thời tiết lạnh cắt da cắt thịt, nhưng quả thật những trải nghiệm đó hoàn toàn khác và chẳng ăn thua gì so với trải nghiệm Ngân Sơn.
Chúng tôi đến thị trấn Darchen vào khoảng 7 giờ tối. Mặt trời vẫn chiếu sáng rực rỡ như lúc 3 giờ chiều ở Việt Nam. Tôi bắt đầu cảm thấy choáng váng mệt mỏi. Bất cứ động tác cởi áo ra hay mặc áo vào đều trở nên nặng nề và khó khăn như vác một bao tải nặng vài chục kilogram. Nếu sáng mai, tôi hoàn thành Kora ngày 1 thì sẽ đến được tu viện Dirapuk, độ cao lúc đó sẽ là 4,900m! Tôi sẽ gần Ngân Sơn hơn bao giờ hết! Ý nghĩ đó choáng ngợp tâm trí tôi. Tôi rút trong túi ra vài viên thuốc mani nhỏ xíu do các tu sỹ trong một chùa Tây Tạng ở gần Bồ Đề Đạo Tràng (Bohdgaya) tặng, vừa uống vừa hy vọng sẽ tiếp nhận thêm sự trợ giúp về cả tâm linh lẫn thể chất để có thể vượt qua ngày mai! Chỉ biết ngày mai, không biết ngày mốt...!
Thung lũng Lha Chu, Kora ngày 1
Con đường Darchen – Dirapuk là đoạn Kora ngày đầu tiên, dài khoảng 18km. Đường đi không quá khó nhưng việc thiếu dưỡng khí trên độ cao 4,600m là một thách thức lớn, kèm theo giá rét khiến mũi tôi thường xuyên chảy máu, khô khốc và khó thở. Đoàn hành hương đi bộ dọc theo thung lũng Lha Chu, con đường mòn ngoằn ngoèo, ngút tầm mắt, 2 bên trái phải đều là những dãy núi đá chập chùng như nhiều lớp cửa dần mở, vừa thách thức vừa chào đón chúng tôi đến chiêm bái Kailash.
Mặc dù có sherpa đi cùng để khuân vác hành lý, mỗi người chúng tôi đều đi với một vận tốc rất khác nhau. Nhìn lên phía trước, quay lại phía sau đều chỉ nhác thấy những dòng người hành hương nhỏ xíu ở phía rất xa. Hành cước Ngân Sơn không chỉ dành riêng cho những hành giả ngoại quốc hiếu kỳ, người Tạng đi Ngân Sơn rất đông. Họ đi cả gia đình, hành trang vô cùng giản đơn, tự gồng gánh thực phẩm, thậm chí mang theo cả trẻ con 1, 2 tuổi. Thỉnh thoảng họ nhìn tôi chào “Tashi Delek!” rất thân thiện. Hình ảnh những người Tạng thành kính thực hiện tam bộ nhất bái (3 bước 1 lạy) đảnh lễ Ngân Sơn là một minh chứng hùng hồn về lòng mộ đạo mãnh liệt của dân tộc này. Tam bộ nhất bái khi vượt qua đèo Dolma La hiểm trở ở độ cao 5,636m là một phép màu mà có lẽ chỉ người Tạng mới vượt qua được nhờ vào uy lực của niềm tin tâm linh và lòng sùng kính đạo pháp bất chấp mọi thử thách gian nguy nhất….Hành cước Ngân Sơn là ước mơ của mỗi người Tạng và họ không chỉ mơ đi 1 vòng mà là 13 vòng để sau đó được đi Nội Kora, tức là trực tiếp đi vòng bên trong của núi.
Có thể thấy rất nhiều câu thần chú khắc trên đá
như thế này trên đường đi
Suốt chặng đường kora ngày 1 tôi kiên trì niệm Lục tự đại minh thần chú “Om Mani Padme Hum” không ngừng. Tôi cảm nhận được một cách mạnh mẽ oai lực của câu niệm chú này. Bất kỳ lúc nào gặp hoạn nạn, nguy hiểm hay sợ hãi, tôi luôn luôn trì niệm Lục tự đai minh thần chú và đều nhận được sự gia trì. Khoảng 5 cây số còn lại trước khi đến Dirapuk, tôi đi như bay, không ngừng, không nghỉ và cũng không cảm thấy mệt nữa. Cậu sherpa mệt nhọc chạy theo tôi, cũng chẳng hiểu vì sao tôi đi nhanh như thế. Tôi chỉ có một lời giải thích lúc đó: lời khấn  nguyện của tôi được lắng nghe. Chính chư Phật đã đẩy tôi về phía trước và nâng bước chân tôi lên.
Tôi đến nhà nghỉ thuộc vùng Dirapuk lúc 3 giờ chiều, mạnh khỏe và sảng khoái sau khi hoàn tất chuyến Kora ngày đầu. Bên tay trái tôi là tu viện Dirapuk. Muốn đến đó phải vượt qua con sông Dirapuk đang đóng băng! Bên phải tôi, Ngân Sơn hiện ra ở cự li gần một cách khủng khiếp, gần đến mức tôi cứ ngỡ chỉ cần đi bộ vài trăm mét nữa là chạm vào núi  thiêng. Hai bên Ngân Sơn là ngọn núi Văn Thù Sư Lợi và núi Quán Thế Âm cũng oai nghiêm, sừng sững.
Ngân Sơn và 2 ngọn núi Bồ Tát ở 2 bên
Tim tôi như nghẹt lại vì xúc động khi tiến sát hơn khoảng hơn 200m nữa để chiêm bái Ngân Sơn trong cự li gần nhất có thể. Một lần nữa tôi cho rằng mọi ngôn từ đều là giới hạn, thậm chí vô nghĩa khi phải diễn tả cảm xúc tại không gian linh thiêng này. Đằng trước là núi thiêng, đằng sau, bên trái, bên phải, xung quanh đều là núi, núi và núi. Những ngọn núi trầm mặc, uy nghiêm, trắng lóa băng tuyết dưới nắng mặt trời chói chang, đỉnh tựa vào bầu trời xanh thăm thẳm vô tận, người hành giả nhỏ nhoi đứng giữa đất trời và núi đồi bao la trùng điệp, câm bặt vì xúc động. Thời gian như ngừng trôi!
Tôi quỳ xuống lớp đá sỏi còn đóng băng phia dưới, cúi lạy Ngân Sơn và 2 ngọn núi Bồ Tát rồi chọn một tảng đá phẳng ngồi thiền định khá lâu trong buổi chiều hôm ấy. “Om Mani Padme Hum”, không phải ai cũng thấy Ngân Sơn hiển lộ một cách rõ ràng như tôi đang thấy. Nếu đi vào những ngày thời tiết xấu, nhiều mây, Ngân Sơn sẽ lẫn vào trong mây mù và hành giả sẽ không thể nhìn thấy đỉnh.
Dự cảm của tôi là chính xác. Tôi quyết định quay về, biết rằng sự chuẩn bị tâm linh của mình chưa đủ để tiếp tục Kora ngày thứ hai. Hướng dẫn viên người Tạng cho biết tuyết đóng rất dày trên đèo Dolma La và bò Yak, ngựa sẽ không thể đi theo chúng tôi trên đoạn Kora ngày 2 được. Với thời tiết khắc nghiệt như thế cộng thêm dưỡng khí quá loãng có thể gây trụy tim, họ khuyến cáo không nên tiếp tục cuộc hành cước vì sẽ không đảm bảo tính mạng cho hành giả.
Tôi chưa bao giờ ân hận hay luyến tiếc về quyết định dừng lại tại Dirapuk và quay trở về Darchen. Tôi chưa hoàn tất một vòng Kora Ngân Sơn, nhưng tâm tôi đã hướng về ngọn núi thiêng tự bao giờ, tôi đã gắn bó với Ngân Sơn ngay từ giây phút đầu tiên vọng bái núi thiêng từ xa. Sự chuẩn bị tâm linh đã cho phép tôi đi gần một nửa vòng Ngân Sơn và việc đó phải chăng cũng chính là cơ hội để tôi quay lại Ngân Sơn lần thứ hai trong một thời gian không xa?
Tôi đi bộ ngược về Darchen sáng hôm sau với vận tốc nhanh hơn cả ngày hôm trước, tâm thanh thản, hạnh phúc! Câu niệm Lục tự đại minh thần chú luôn luôn ở trong tâm thức của tôi trên mọi hành trình gian nan! Tôi về đến Darchen trong sự hoan hỉ sâu sắc khi gặp lại  tất cả các anh chị em trong đoàn, những người giờ đây đã trở thành gia đình tâm linh của tôi, đều bình an và mạnh khỏe.
Dù chưa trọn một vòng kora quanh Ngân Sơn, tôi tin rằng mình đã thực hiện một vòng Kora trong tâm. Thời gian lưu lại Tây tạng, đặc biệt là tại hồ Manasarovar và Ngân Sơn là một trải nghiệm tâm linh cao quý đối với một tín đồ hành hương như tôi. Lạt Ma Govinda đã rất đúng khi nói rằng đây là một hành trình tâm linh, một hành trình của niềm tin và lòng kính ngưỡng sâu sắc!
Kết thúc bài viết này, trời Sài gòn đã về chiều. Hoàng hôn chếch vào cửa sổ một màu cam chói sáng, đậm đến lạ lùng. Tôi mở cửa số ngắm nhìn hoàng hôn Sài gòn, kỳ lạ thay! Chưa bao giờ bầu trời đẹp đến thế. Tôi bỗng thấy nhớ da diết những ngày rong ruổi trên những bình nguyên bao la của xứ Tạng buổi hoàng hôn chiều tà, cũng cái nắng màu cam đậm da diết phủ lên các ngọn núi, sông hồ và thảo nguyên….Phải chăng trong một tiền kiếp nào đó, Tây Tạng đã từng là nhà của tôi?

Sài gòn ngày 9/6/2013


Bút ký: Ngân Sơn Kailash - Vạn Dặm Không Mây (Phần I)

Xin cảm ơn Sư huynh Trịnh Thanh Cường, người đã chỉ dạy cho tôi những kiến thức Phật giáo uyên thâm trước và trong chuyến hành hương đến Tây Tạng. Xin cảm ơn chị Huỳnh Hồng Hải đã tổ chức chuyến đi thành công viên mãn cho chúng tôi . Xin cảm ơn các anh chị em trong đoàn hành hương, những người đã trở thành gia đình tâm linh của tôi sau chuyến hành cước Ngân Sơn!

Đường tới Lhasa
Không một ai đặt chân vào Tây Tạng mà không chịu ảnh hưởng của nó, và không ai có thể chui rúc vào đời sống chật hẹp một khi đã nhìn thấy sự bao la hùng vĩ của rặng Tuyết Sơn…”
Lama Govinda Anagarika.
 
Chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Gunggar, Lhasa vào một buổi sáng tháng Năm trong veo, mát rượi. Tây Tạng đây rồi ư? Xứ Tuyết mênh mang huyền ảo trong giấc mơ bấy lâu nay của tôi đây rồi ư? Phải mất một vài phút định thần tôi mới thực sự tin rằng bàn chân mình đang đứng trên Xứ Tuyết!  Phải chăng các Chư Phật và chư Bồ Tát đã đọc được giấc mơ hàng đêm của kẻ hành hương nhỏ bé và trợ duyên cho tôi sớm đặt chân đến mảnh đất thiêng liêng đầy huyền bí này.
Tôi lặng lẽ ngắm nhìn bầu trời trong và xanh, những con đường ngút tầm mắt uốn lượn dọc theo dãy núi Chuwaru hùng vĩ ôm trọn thị trấn Gunggar. Thật bất ngờ về chất lượng tuyệt hảo của đường xá nơi đây, chiếc xe buýt của chúng tôi chạy bon bon trên đường, 2 bên chập chùng núi đồi và thảo nguyên lấp lóa dưới ánh nắng trong suốt của mặt trời xứ tuyết. Chạnh lòng nghĩ đến con đường chông gai mà Lạt ma Govinda Anagarika phải vượt qua cách đây hơn 65 năm khi tìm đường vào Tây Tạng tầm sư cầu đạo và đảnh lễ Ngân Sơn. Ông đã phải trải qua muôn vàn khó khăn thách thức về đường xá, thời tiết, có những lúc tưởng đã gần kề cái chết. Tác phẩm “Đường Mây Qua Xứ Tuyết” của ông đã trở thành cảm hứng mãnh liệt cho tôi và cũng là một trong những lý do thôi thúc tôi đến Tây Tạng dù có thể phải trả giá bằng những cơn đau đầu dữ dội, những ngón tay, chân thâm tím vì thiếu dưỡng khí, chảy máu cam liên tục hay tệ hơn thế nữa…
Thị trấn Gunggar nằm ngay trong lưu vực sông Yarlung Tsangpo, một trong bốn con sông thiêng bắt nguồn từ rặng Himalaya hùng vĩ và được mệnh danh là “Everest của những con sông” vì chiều dài và độ cao đáng nể của nó. Từ sân bay về đến thủ đô Lhasa, chúng tôi sẽ đi ngang qua con sông này. Tôi cảm thấy nghẹt thở trước vẻ đẹp lộng lẫy của dãy Chuwaru và sông Yarlung Tsangpo, núi và sông hòa quyện vào nhau phản chiếu bầu trời xanh thăm thẳm lác đác những đám mây trôi bồng bềnh. Nắng vàng ươm trải dài trên những sườn núi phía Đông dọc theo con đường tôi đi qua. Chưa thấy các đỉnh núi phủ tuyết, có lẽ vì bây giờ đang là mùa xuân và tuyết cũng đã tan dần ở độ cao 3,600m? Lúc đó, tôi chưa hay biết rằng những ngày tới đây, mình sẽ còn nghẹt thở nhiều lần nữa trên đoạn đường hành hương dài hơn 1,300 km từ Lhasa đến núi thiêng Ngân Sơn Kailash. Quả thật, chỉ khi đặt chân đến nơi đây, tôi mới hiểu được sự giới hạn của ngôn ngữ khi phải diễn đạt vẻ đẹp không bút nào tả xiết của thiên nhiên hùng vĩ và hoang sơ nơi Xứ Tuyết.
Vạn dặm sơn thủy xứ Tạng

Chúng tôi lưu lại thủ đô Lhasa 2 ngày để chuẩn bị sức khỏe cho hành trình dài sắp tới – Hành trình hướng về Ngân Sơn Kailash, mục đích lớn nhất của chuyến hành hương lần này!. Các cuộc viếng thăm những cổ viện nổi tiếng ở Lhasa như chùa JoKhang, tu viện Sera, tu viện Drepung và nhất là Cung Potala để lại trong tôi nhiều cảm khái nội tại, buồn vui lẫn lộn. Vui vì sau nhiều năm mong nguyện, tôi và các anh chị em đạo hữu đã đủ thuận duyên để bước chân chiêm bái một số trong những tu viện lừng danh nhất của Tây Tạng, những nơi lưu giữ nhiều pho tượng Phật nổi tiếng cũng như những điển tích Phật giáo Mật tông lâu đời và thiêng liêng nhất, những nơi lưu giữ kinh sách giáo pháp Mật tông từ nhiều thế kỷ trước mà khi nhìn thấy, tôi chỉ biết quỳ sụp xuống trong sự ngưỡng kính khôn tả xiết. Nước mắt tôi chảy vòng quanh trong nỗi buồn xa xăm khi biết rằng những tu viện lẫy lừng này trong quá khứ đã từng đào tạo hàng trăm ngàn tăng sĩ qua nhiều thế kỷ, nay chỉ còn vài trăm vị tăng. Tôi bỗng nhớ da diết nụ cười hiền hòa của Đức Dalai Lama  XIV khi Ngài giảng Pháp ở Dharamsala, Ấn Độ rồi cứ hình dung Ngài đang ngồi ở đâu đó, trong cung Potala, trên chiếc ghế gỗ giản dị, người hơi lắc qua lắc lại trong tư thế quen thuộc của Ngài, mỉm cười vẫy chào chúng tôi. Mỗi bước chân đi trong cung điện Potala, từng ngõ ngách, từng căn phòng, tôi lại tưởng tượng các tu sĩ và lạt ma Tây Tạng trong những chiếc tăng bào màu đỏ thẫm đang lướt qua trước mắt, uy nghi, đầy oai lực. Giá như tôi có thể nhìn thấy họ bằng xương bằng thịt! Giá như tôi có thể diện kiến Đức Dalai Lama XIV trong chính ngôi nhà của Ngài!  Mọi thứ đều y nguyên, phòng đọc sách, phòng tiếp khách, nơi thiền định của của Ngài… mọi thứ đều có ở đó, nguyên vẹn nhưng cô tịch vì vắng bóng chủ nhân từ rất lâu rồi!

Từ Lhasa đến hồ thiêng Manasarovar
Chia tay Lhasa, tôi ngoái đầu nhìn lại Cung điện Potala một lần nữa, thẫn thờ! Potala đứng đó, hùng vĩ, oai nghiêm và chẳng liên quan nhiều đến phần còn lại của Lhasa, thành phố đã bị Hán hóa với quá nhiều nhà cửa bê tông cốt thép, nơi các cửa hàng, quán xá đều chưng bảng hiệu chữ Hán to tướng với chữ Tạng khép nép bé nhỏ nằm ở bên dưới!
Con đường từ Lhasa đến Ngân sơn chia làm 3 chặng. Như vậy có nghĩa là chúng tôi sẽ mất 3 ngày di chuyển trên đường với chiều dài tổng cộng khoảng 1,330km ở độ cao tối thiểu là 3,900m. Tuy nhiên đường đến Ngân Sơn thơ mộng như lạc vào cõi chư thiên nên hầu như chẳng ai quan ngại lắm về chiều dài của chặng đường. Mọi người đều hướng về núi thiêng Ngân Sơn đang vẫy gọi.
Sông băng
Chặng đầu tiên là Lhasa – Shigatse, 270km. Mặc dù Shigatse chỉ cao hơn Lhasa 300m nhưng để đến được thành phố này, có những lúc chúng tôi phải vượt qua những ngọn đèo cao gần 5,000m. Phong cảnh trên chặng đường này quả là tráng lệ đến nghẹt thở. Những con đường bê tông uốn chạy quấn quít xung quanh các ngọn núi phủ băng tuyết hùng vĩ... Hàng trăm cây số, chỉ có núi tiếp núi, mây tiếp mây. Chiếc xe của chúng tôi trở nên bé nhỏ như xe đồ chơi trong Xứ Tuyết. Ở những chốn như thế này, bỗng thấy con người quả là nhỏ bé li ti, kiếp người thật là ngắn ngủi và chật hẹp! Và kia rồi, những ngọn núi phủ băng tuyết vĩnh cửu đã hiện ra đằng xa, trắng lóa dưới ánh sáng mặt trời, trắng đến mức máy ảnh không thể phân biệt được đâu là tuyết và đâu là màu mây. Phía trên bầu trời, tuyết và mây trắng quyện lẫn với nhau trên các núi băng vĩnh cửu, phía dưới con đường, các dòng sông băng trắng xóa còn chưa kịp tan tạo thành một không gian huyễn ảo. Hơn lúc nào hết, tôi bắt đầu hiểu vì sao Lạt ma Govinda gọi Tây Tạng là “những con đường mây trắng”, vì sao những dòng hồi ký ông viết ra lại quá đẹp và nên thơ khiến lòng tôi cứ ngẩn ngơ thẫn thờ! Phải, giờ đây chính tôi đang đi trên những con đường như thế, chính tôi được trải nghiệm những cảm giác như ông diễn tả. Biết đâu những con đường tôi đang đi đã từng in dấu chân người tu sĩ mộ đạo Govinda Anagarika?
Cành hoa dại bên đường
Hồ Yamdrok là một hồ thiêng không thể bỏ qua trên hành trình đến Shigatse. Tôi có cảm giác Yamdrok chính là tiền đề của hồ thiêng Manasarovar mà 2 ngày sau tôi được tận mắt diện kiến bởi vì nước hồ quá trong xanh và phẳng lặng. Yamdrok như một dải lụa xanh thẳm, mịn màng uốn mình một cách khẽ khàng và dịu dàng qua các triền núi uy nghiêm. Khi chúng tôi đến, tuyết trên các ngọn núi đang tan, không khí lạnh buốt tê cóng nhưng trong lành vô cùng. Chúng tôi đang ở độ cao khá ấn tượng: 4,677m so với mặt nước biển. Tôi cảm thấy khá tỉnh giác mặc dù độ cao này có thể làm nhiều người không còn cất bước nổi. Trong không gian bao la và tĩnh lặng này, trí tưởng tượng của tôi lại bay bổng. Tôi bỗng nhớ đến bài thơ “Tuyết trên Sông” của Liễu Tông Nguyên, một thi tăng đời Trung Đường:
“Ngàn non bặt cánh chim bay
Lối mòn vạn nẻo quạnh hiu bóng người
Ngư ông nón lá tả tơi
Tuyết rơi sông lạnh ngồi câu một mình”
Phong cảnh hồ Yamdrok cũng thơ mộng như một bài thơ. Giữa không gian bao la, trên bờ hồ lạnh giá cô tịch này, ước gì tôi nhìn thấy một vị ẩn tu đang lững thững xuống hồ ngồi câu và cảm khái một bài thơ thiền!
Hồ Yamdrok
Cung đường từ Shigatse đi Saga và từ Saga đến thị trấn Darchen dưới chân núi thiêng Ngân Sơn cũng không kém phần thi vị. Tổng chiều dài của đoạn đường là gần 1,060km, độ cao trung bình khoảng hơn 4,000m. Khác với cung đường Lhasa - Shigatse với con đường đèo cao chót vót, ngoằn ngoèo, hiểm trở, nhiều khúc cua khuỷu tay rất gắt, cung đường Shigatse – Saga – Darchen hiền hòa hơn nhiều, đường cái quan bằng phẳng chạy xuyên giữa vô số hồ nước trong vắt, các thảo nguyên mênh mông bạt ngàn, xa ngút tầm mắt được bao bọc bởi những rặng núi trầm mặc, phủ tuyết trắng phau, trùng trùng điệp điệp tận chân trời. Tôi chiêm ngưỡng các đàn bò Yak ung dung gặm cỏ, dê, cừu hồn nhiên chạy lăng xăng trong một phong cảnh thiên nhiên hoang sơ và khuyến rũ đến lạ lùng.
Tại đây, tôi hoàn toàn hiểu được vì sao trong bút ký “Đường Xa Nắng Mới”, tác giả Nguyễn Tường Bách đã phải thốt lên rằng: “Đi trên con đường này, khách cứ ngoảnh qua ngoảnh lại để ngắm thác trên sườn núi, mắt mở lớn để thu nhận một vùng đất trời không thuộc về thế giới con người và tâm bồi hồi biết đây chỉ là quang cảnh tạm thời của đời mình.” Anh lái xe người Tạng thỉnh thoảng ngân nga vài bài hát Tạng cho chúng tôi nghe, rồi anh bật đài phát thanh ca nhạc tiếng Tạng, thỉnh thoảng anh nhún nhảy theo điệu nhạc làm chúng tôi bật cười vui lây. Chúng tôi à ơi hát theo anh dù chẳng hiểu một chữ Tạng nào! Trong khung cảnh thiên nhiên như thế, những giai điệu sinh động của người Tạng đã trở thành một phần không phai nhòa, mãi hằn in trong ký ức một kẻ hành hương!
Hồ thiêng Manasarovar - trong xanh đến bàng hoàng
Điểm đến mà chúng tôi nôn nao chờ đợi nhất trước khi chiêm bái Ngân Sơn chính là hồ thiêng Manasarovar ở độ cao 4,556m. Hồ có diện tích khoảng hơn 400km vuông, chu vi khoảng 88km, chỗ sâu nhất khoảng 90m. Manasarovar là một trong những hồ có trữ lượng nước ngọt lớn nhất Tây Tạng. Tiếc là lần này chúng tôi không có đủ thời gian để thực hiện Kora quanh hồ và thăm viếng vô số các cổ viện lân cận. Trước khi đến Manasarovar, chúng tôi còn có dịp đến thăm hồ Rakshastal, được xem là hồ “chị em sinh đôi” với Manasarovar. Rakshastal còn được gọi là hồ quỷ hay hồ dạ xoa vì những âm khí và năng lượng xấu được tin là phát sinh từ nó. Mặc dù thế, phong cảnh xung quanh Rakshastal diễm lệ không thua kém gì Manasarovar. Tuyết trắng đóng băng bạt ngàn trên hồ và các đỉnh núi xung quanh, bầu trời màu xám nhạt, lạnh lẽo!…Đến Rakshastal, tôi có cảm giác như mình đang ở mùa đông âm u phương Bắc! Điều kỳ lạ nhất mà tôi chưa giải thích được là mặc dù Manasarovar và Rakshastal chỉ cách nhau một rẻo đất nhỏ và thông được với nhau qua kênh Ganga Chhu, nhưng nước hồ quỷ thì đóng băng trắng xóa còn nước hồ Manasarovar lại trong xanh đến bàng hoàng. Cùng một vị trí địa lý, một điều kiện thời tiết, vì sao có thể xảy ra hiện tượng lạ lùng này?
Đứng ở hồ thiêng Manasarovar, tôi đã thấy Ngân Sơn thấp thoáng hiện ra trong tầm mắt. Chì một ngày nữa thôi, chúng tôi sẽ đến gần Ngân Sơn hơn và sẽ có một chuyến hành cước đảnh lễ ngọn núi thiêng này! 

Bình minh trên hồ Manasarovar

 Ngắm Manasarovar vào buổi bình minh và hoàng hôn là một may mắn lớn của đời người hành hương. Người ta tin rằng nước hồ Manasarovar linh thiêng có thể tẩy sạch và tiêu trừ mọi nghiệp lực tối tăm nếu các tín đồ hành hương đắm mình trong dòng nước trong xanh này. Nước hồ trong đến mức có thể nhìn thấy những chú cá nhỏ xíu bơi lội tung tăng và những viên sỏi bẹt nằm bên dưới! Khi bình mình xuất hiện, bầu trời ửng hồng đằng sau rặng núi tuyết trắng phau. Trên bờ hồ, nhiều tín đồ lặng lẽ ngồi thiền định hoặc đang âm thầm chuẩn bị cho một cuộc thanh tẩy nghiệp chướng trên dòng nước biếc. Rồi bầu trời sáng dần lên, trong xanh lạ lùng, từng đàn chim trời vỗ cánh bay lượn trên mặt hồ tĩnh lặng và lướt qua Tu viện Chiu Gompa trên núi cao, nơi được tin là Guru Padmasambhava (Liên Hoa Sinh) đã từng tu tập và thiền định phép tu Kim Cương Thừa với vị phối ngẫu của ngài là vị Không Hành Nữ Yeshe Tsogyel. Không gian linh thiêng của tu viện cũng như của hồ thiêng đã bao phủ lấy tôi, tiếp cho tôi thêm sức mạnh tâm linh để thực hiện chuyến hành cước của mình. Tôi ngước nhìn bình minh, bầu trời cao xanh rỗng lặng, sao lòng thanh thản khác lạ, thầm thì tôi nhẩm đọc lại một đoản khúc thơ của Thiền sư Hoàng Trí Chánh Giác (1091 -1157), một trong những đoạn yêu thích nhất của tôi:
“Giống như giấc mơ của một con sếu bay trong không gian trống rỗng
Giống như nước sáng, lặng của hồ thu
Những kiếp vô cùng tan trong khoảng không
Mỗi cái không phân biệt với cái khác.”
Chia tay nơi đây, biết bao giờ có dịp trở lại? Thầm mong nguyện rằng một ngày nào đó không xa, bàn chân lầm lũi âm thầm của kẻ hành hương sẽ quay lại nơi này, lặng lẽ bước đi quanh hồ thiêng bao la, đắm chìm trong cái rỗng lặng uyên nguyên của không gian và cảnh vật xung quanh, nghiền ngẫm cái vô thường của cuộc đời, cái huyễn của mọi pháp trên thế gian này! Tôi cúi nhặt 2 viên sỏi nhỏ trên bờ hồ Manasarovar mang về làm kỷ niệm, nhắc mình một dấu tích đáng ghi nhớ trong đời về chuyến hành hương đầy ý nghĩa này.
(Hết phần I)

Thiền Hành (Walking Meditation)

99% kinh nghiệm về thiền tập của tôi là thiền tọa (ngồi thiền), lưng thẳng như mũi tên, trong tư thế 7 điểm của đức Phật Tì Lô Giá Na và...